Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Về Với Mẹ Qua Những Bài Haiku Việt

11/08/201102:44(Xem: 3390)
Về Với Mẹ Qua Những Bài Haiku Việt


VỀ VỚI MẸ
QUA NHỮNG BÀI HAIKU VIỆT

Đức Sơn Thái Trọng


Em ơi, anh đã từng đọc những vần thơ đầy sự day dứt của nhà thơ Trụ Vũ khi ông mong muốn diễn đạt một tình yêu dành cho mẹ nhưng đành phải bất lực trước sự giới hạn của ngôn từ và hình ảnh:

… Từ hai mươi năm nay tôi vẫn muốn làm một bài trường ca để ca ngợi mẹ tôi

Nhưng tôi chưa làm được một câu nào

Bởi vì tất cả những vì sao

Không đủ sáng bằng ánh đèn con mà đêm đêm mẹ tôi thường cao soi trên giường tôi để canh nhìn tôi ngủ

Bởi vì tất cả triều hoa từ vạn kỷ không đủ thơm bằng hơi thở mẹ ngạt ngào

Và, bên vô cùng, tôi chỉ có thể làm thinh.

(Trụ Vũ, Ngày của Mẹ- NXB Văn Nghệ TP.HCM)

Nhà thơ Trụ Vũ đã “làm thinh”vì biết ngôn ngữ trần gian không thể chứa đựng được hai tiếng “Mẹ ơi!”.Nhưng “làm thinh”cũng không có nghĩa là im lặng không dám nói thật, không dám thốt lên tiếng nói của trái tim mình. Bởi, hai tiếng “Mẹ ơi!”là linh ngữ, là linh tự, là liều thuốc mầu nhiệm để cứu rỗi, để xoa dịu nỗi đau đời cho những đứa con:“… mỗi khi con tim anh nhức buốt nỗi đau đời. Anh chỉ có một lời để gọi: Mẹ ơi!”(Trụ Vũ- Một lời). Vu lan đã về - “Tháng Bảy mùa trăng, mùa Mẹ lên ngôi”(Thích Thái Hòa). Anh muốn đưa em về thăm mẹ của chúng mình qua những bài thơ Haiku Việt nhỏ bé nhưng chất chứa trong nó là cả một đại dương tình thương dành cho mẹ. Mình đi em nhé!

***

Em ơi, em hãy nhìn kìa: Một em bé đang nằm trong nôi. Em có nhớ ngày mình còn nằm nôi, còn được mẹ ẵm bồng trên tay và ru ngủ không? Lâu quá rồi, anh sợ chắc em không còn nhớ rõ những giây phút đẹp nhất của đời mình. Nhưng may quá em ơi, nhà thơ Nguyễn Thị Kim đã giúp anh nói hộ bằng một bài Haiku để em hiểu:

“Lời ru ầu ơ

bé mơ

bay cùng bướm”.

Tuyệt vời quá phải không em? Lời mẹ ru như một khúc ca, một làn gió mát đưa em bé vào giấc ngủ, đưa em đến với những giấc mơ hồng để trong giấc ngủ mà miệng bé vẫn cười trông thật dễ thương. Và, em ơi, đó cũng là nụ cười của em. Nụ cười đẹp như thiên thần:

“Bên bầu sữa mẹ

miệng bé

nở hoa”. (Nguyễn Thị Kim)

Nụ cười của bé nở hoa trong mắt và cũng nở hoa trong tim Mẹ. Bởi đơn giản một điều: đứa con là niềm tin, là sinh mệnh để Mẹ tồn tại trong cõi đời này. Em còn nhớ nhà thơ Trụ Vũ dặn dò mình gì không? “Mẹ không có sinh mệnh mình. Mẹ chỉ có sinh mệnh mình trong sinh mệnh đứa con mình yêu dấu” (Cõi Mẹ - Trụ Vũ). Vì vậy cho nên Mẹ đã hy sinh tất cả:

Chỗ mẹ nằm

hạt mưa

xuyên mái tranh”.(Nguyễn Thị Kim)

Em ơi, mẹ có thể vì anh, vì em và vì những đứa con thơ ngây của mình mà chấp nhận giá rét của mưa to, bão lớn “chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo phần con”.

Đêm tối cũng là nỗi đe dọa đáng sợ của trẻ thơ. Anh nhớ mẹ đã ôm anh, vỗ về và ru anh ngủ. Sợ con thức giấc, mẹ không dám xoay trở thân mình. Thương lắm em ơi:

“Chiếc gối của con

đôi tay mẹ

sờn theo năm tháng”. (Trúc Anh)

Đôi tay mẹ đã chăm sóc từng miếng ăn giấc ngủ, tần tảo để nuôi anh em mình lớn khôn. Đôi tay ấy nay đã gầy còm, nhăn nheo như chiếc gối sắp rách đi rồi. Em có lần nào nhìn và nâng đôi tay mẹ lên chưa? Hãy áp hai bàn tay của Mẹ vào đôi má mình, em sẽ thấy nó thô ráp không còn mịn màng như thời mẹ còn son trẻ nữa. Sự bào mòn nghiệt ngã của thời gian, của vất vả, khổ cực đã lấy đi tất cả vẻ đẹp tuổi thanh xuân. Đâu chỉ có thế em, mẹ cũng vì chúng ta mà gánh chịu bao khổ nạn của đời:

“Hàng rong

vai mẹ gánh

đời bão giông”. (Đông Tùng)

Cái dáng cô đơn, còm cõi, co ro của mẹ giữa chợ đời đã in hằn trong tâm trí anh. Chỉ thoáng hiện qua trong bài thơ nhưng hình ảnh ấy đã có mặt suốt nghìn xưa cho đến nghìn sau. Bởi vì, nó bảo chứng cho sự kham nhẫn, lòng thương yêu của mọi mẹ hiền nơi trời Âu cũng như đất Á.

Có một người mẹ gánh hàng rong trong phiên chợ nghèo thì cũng có một người mẹ trên đồng cạn, dưới đồng sâu:

“Gió đông

lưng mẹ còng

che lúa”. (Nguyễn Thị Kim)

Một mình giữa đồng với cái lạnh của gió mùa đông, Mẹ chăm sóc ruộng lúa để giành lại bát cơm cho con trẻ no lòng. Lưng mẹ còng đi để cho anh em mình cao lớn lên… Anh chợt nhớ đến một hình ảnh:

“Đồng khuya

cánh vạc

mẹ già”.(Lê Đình Công)

Em ơi, hình ảnh mẹ một mình trên đồng vắng ấy giống như hình ảnh một cánh cò cô đơn, run rẩy trong ca dao một thuở mà anh em mình đã học. Sự tần tảo, kham nhẫn không lời ấy đã là một đức tính của người mẹ Việt Nam muôn thuở. Em sẽ càng xót lòng khi nhìn thấy một mùa vàng trên những thửa ruộng mà cũng chỉ đơn độc một mình mẹ:

“Nắng gắt

lưng rang

mẹ gặt”. (Nguyễn Thị Kim)

“Lưng mẹ còng / che lúa”rồi “lưng rang / mẹ gặt”. Chỉ mình mẹ thôi sao? Chỉ một mình mẹ phải làm lụng tất cả trong im lặng, không thở than. Hai từ “lưng rang”đủ diễn tả cái nắng gay gắt và cũng đủ để anh em mình thấm thía nỗi cơ cực mà mẹ phải gánh chịu. Anh đã rơi nước mắt khi ngồi một mình ngẫm nghĩ về bài thơ này. Bởi, mẹ của anh cũng là một người phụ nữ chân lấm tay bùn quanh năm suốt tháng với ruộng đồng, vườn rau, chái bếp không một phút ngơi tay suốt 30 năm rồi! Mẹ đã đánh đổi tất cả những niềm vui riêng tư nhất của mình để mang đến hạnh phúc cho anh. Anh chợt nhớ có hai câu thơ của một người không quen biết đã viết một cách thật thấm thía như sau:

“Mẹ ném thân mình vào gió bụi

Một đời cật lực chạy nuôi con”. (Võ Minh Trang - Tạ ơn giọt lệ)

Tác giả chắc hẳn không phải là một nhà thơ nhưng hiện thực trong hai câu thơ khiến anh thật sự xúc động… Nó thật như đời Mẹ của anh.

***

Em ơi, hình như đứa con nào rồi cũng rời xa mẹ. Con gái thì như lời thơ Nguyễn Bính: “Gái lớn, ai không phải lấy chồng” (Nguyễn Bính - Lòng mẹ). Khóc rồi lạy mẹ mà đi về nhà người để lại mình mẹ với bao lo lắng ngổn ngang:

“Đưa con ra đến cửa buồng thôi

Mẹ phải xa con, khổ mấy mươi

Con ạ, đêm nay mình mẹ khóc

Đêm đêm mình mẹ lại đưa thoi...”.

Còn con trai, có đứa phiêu bạt tha phương không biết ngày về: “Con ra đi xa vòng tay của mẹ / Sống tự do như một chú chim bằng” (Nhớ Mẹ - Đỗ Trung Quân). Cũng có đứa ở ngay cạnh bên mà lạnh lùng hờ hững như Mẹ chưa từng có mặt…

Em có biết mẹ thường sợ nhất điều gì không? Sự cô đơn trong chính căn nhà mình đó em. Em hãy nghe kìa:

“Phong linh

năm canh thao thức

mẹ tôi một mình”. (Đông Tùng)

Tiếng phong linh hay là tiếng thở dài của mẹ vì thương nhớ con suốt năm canh? Nhà thơ Đông Tùng đã rất tinh tế và sâu sắc khi mượn hình ảnh chiếc chuông gió nơi hiên nhà mà nói lên tâm trạng cô đơn của mẹ mình. Có người hiểu, có người dường như lãng quên vì vô tư quá đỗi. May mắn thay, anh vẫn còn bắt gặp những vần thơ, những nỗi lòng khắc khoải của đứa con xa Mẹ:

“Dáng mẹ ngồi

tựa cửa

ngó mây xa”. (Đỗ Thị Hồng Cúc)

Người con gái có tên loài hoa mùa thu ấy đã bước sang bên kia con dốc của đời, xa quê, xa Mẹ nhiều năm và đã làm mẹ nên mới hiểu một cách thấm thía như vậy. Cái dáng mẹ “ngồi tựa cửa”ấy không riêng dành cho tác giả Hồng Cúc. Nhà thơ họ Đỗ cũng từng thảng thốt giật mình nhận ra: “Ta quên mất thềm xưa dáng mẹ ngồi chờ / Giọt nước mắt già nua không ứa nổi / Ta mê mải trên bàn chân rong ruổi / Mắt mẹ già thầm lặng dõi sau lưng…”. đó cũng là mẹ của anh em mình. Em có biết là anh sợ bắt gặp hình ảnh mẹ thẩn thờ tựa cửa trông anh về lắm không? Cái dáng khổ hạnh đó đã ám ảnh và khắc chạm trong tim anh một sự hối hận vô cùng. Đừng để mẹ phải ngồi một mình nơi cửa, tội lắm em ơi!

Cũng trên bước đường đời ấy, có một lời thơ làm anh xúc động quá đỗi:

“Đường con đi

có bàn chân mẹ

tím trời lưu ly”. (Lưu Đức Trung)

Còn hạnh phúc nào hơn khi con bước trên đường đời mà có mẹ đỡ nâng? Với nhà thơ Lưu Đức Trung, đó có thể là một hồi ức tuyệt đẹp và thiêng liêng nhất. Tuổi gần bát thập, người con vẫn vọng ngưỡng về Mẹ như cần một sự chở che, chia sẻ. Bởi vì “Con dù lớn vẫn là con của mẹ” mà! (thơ Chế Lan Viên). Vì là con của mẹ nên trong con có mẹ và trên mỗi bước đường mẹ vẫn theo con!

***

Nhạc sĩ Trần Long Ẩn viết: “Mỗi mùa xuân sang mẹ tôi già thêm một tuổi / Mỗi mùa xuân về ngày tôi xa mẹ càng gần…”. Em đã không nhận ra mẹ đang ngày một gầy mòn đi vào thời trẻ đã đành, nhưng em phải nhìn thấy:

“Lá thu rơi

trong hoàng hôn vắng

tuổi đời mẹ tôi”.(Đông Tùng)

Mượn hình ảnh những chiếc lá chín trên cành và rơi lẻ loi vào một buổi chiều thu vắng, nhà thơ muốn nhắc nhở những đứa con tức khắc phải nhìn lại, phải quay về ngay bên cạnh Mẹ mình. Mẹ đã già yếu lắm, con đừng vô tư đến mức vô tâm mà nghĩ rằng Mẹ vẫn như ngày xưa!

Rồi một ngày nào đó, anh và em cũng phải thốt lên tiếng nấc nghẹn ngào khi Mẹ ra đi:

“Trái chín rụng rồi

bao giờ được gọi

má ơi!”.(Đoàn Thị Thu Vân)

“Mẹ già như chuối chín cây / Gió lay mẹ rụng con phải mồ côi”. Lời thơ hòa cùng lời bài hát đều nói lên sự thương tiếc mẹ. Có giọt lệ chảy trên má mà cũng có giọt lệ chảy trong tim. Tất cả chỉ mong kiếm tìm lại hình bóng mẹ yêu để được gọi hai tiếng thân thương: Mẹ ơi!

Mẹ giờ đây đã trở về cát bụi, đã yên nghỉ sau một đời vất vả vì chồng, vì con:

“Khung trời dệt nắng

đồi cao mẹ nằm

kìa bông sim tím”.(Lê Thị Bình)

Hoa sim tím dung dị và cũng thủy chung son sắt như đời Mẹ. Vậy là, với con:

“Vu lan mùa này

áo cài hoa trắng

côi cút từ đây”.(Đông Tùng)

Hình như tất cả mọi đứa con khi mất mẹ đều có chung tâm trạng như vậy, Thiền sư Nhất Hạnh đã nói hộ những người con không có may mắn còn mẹ như mình: “Dù tôi đã lớn đến cách mấy mà khi đã mất mẹ thì cũng như đứa trẻ, cũng cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cũng không hơn gì trẻ mồ côi”(Bông hồng cài áo). Rồi mai kia mốt nọ, có những giây phút bất chợt kỷ niệm xưa ùa về:

“Nhặt cây kim rỉ

Mẹ ơi!

áo con rách vai”.(Lưu Đức Trung)

Ôi, hai tiếng “Mẹ ơi!”được thốt lên như ngày xưa: “Mẹ ơi! áo con rách vai”. Mẹ khẽ mỉm cười và bảo: “Để chốc nữa mẹ vá lại cho”. Ngày xưa… ngày xưa… hiện về trong ký ức của một người già. Đứa con thơ dại năm nào giờ đã là cha, là ông với mái đầu bạc trắng. Em hãy nhìn hình ảnh một ông già tình cờ nhặt được cây kim rỉ mà nước mắt lưng tròng nhớ mẹ mình ngày xưa! Hiện tại và quá khứ được nối kết với nhau bằng tiếng gọi thân thương “Mẹ ơi!”. Chỉ khác rằng ngày xưa có mẹ, còn giờ đây…

Mùa Vu lan người ta làm thơ và hát những ca khúc dành tặng mẹ. Liệu có mấy ai nhớ rằng mẹ đã hát ru con cả tuổi thanh xuân của mình, đã dỗ dành khi con vấp ngã trên đường đời? Ru và dỗ… Những điệp khúc của trái tim mẹ cứ ngân vang cho đến khi sức kiệt hơi tàn. Mẹ đã lấy đời mình để dệt thành bản trường ca huyền thoại mà chúng ta nào có biết đâu!

***

Em à, người ta nói thơ Haiku là thể thơ truyền thống của người Nhật. Đây là một thể thơ cực ngắn, cô đọng, hàm súc. Một bài thơ chỉ có 3 dòng, 17 âm tiết. Nội dung Haiku thường hướng về thiên nhiên bốn mùa và nội tâm cá thể để phản ảnh. Sang đến Việt Nam, đất nước mình giàu tình cảm nên thơ Haiku cũng giàu âm điệu, hình ảnh. Haiku Việt đã ghi những dấu ấn đầu tiên trên trang sách thi ca nước nhà. Những bài thơ mà anh em mình vừa đọc trong tình yêu và sự ngưỡng vọng về mẹ là những bài Haiku phản ánh được tâm hồn Việt. Dù chỉ có vỏn vẹn vài từ, nhưng hình ảnh Người Mẹ Việt Nam từ ngàn đời nay vẫn có mặt với đầy đủ những đức tính riêng nhất, đẹp nhất của dân tộc mình.

Anh không phải là người nghiên cứu thơ Haiku Việt. Bằng trái tim của một đứa con, anh cảm nhận những bài Haiku trên dù được viết trong nhiều hoàn cảnh khác nhau nhưng tất cả chỉ có cùng một cung bậc cảm xúc là thành kính, thương yêu mong muốn thốt lên hai tiếng: Mẹ ơi! Ngôn từ có thể bị giới hạn nhưng cái không lời kia mới là điểm đến của những trái tim yêu thương mẹ. Bởi vì, nói đến mẹ, đến Tình Mẹ là nói đến cái vô cùng. Ai có thể diễn tả được cái vô cùng ấy hả em? Nhưng dù sao, những bài Haiku Việt gói trong lòng bàn tay ấy cũng đủ góp vào mùa Vu lan một tiếng nói: Con yêu mẹ!Nó đủ nhen lên một ngọn lửa nhỏ ấm áp trong tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt này!

Có bài thơ là nụ cười hạnh phúc như cánh hoa hồng đỏ mà em đang nâng niu. Nhưng cũng có bài là giọt lệ lăn dài trên má, là nỗi nhức nhối trong tim như cánh hoa hồng trắng trên ngực áo những ai không có may mắn còn mẹ trên đời. Em có thấy điều anh vừa nhìn ra không? Những bài Haiku Việt nhỏ bé như dáng mẹ gầy, mong manh như hơi thở yếu ớt của mẹ; như cánh hoa hồng trên ngực áo anh em mình. Gió có thể thổi bay chúng; gót chân đời có thể giày xéo nát những cánh hoa nhưng nó vẫn còn đó, vẫn hiện hữu trong trời đất này như tình mẹ thương con và tình thương mà con dành cho mẹ. Đó là điều bất khả tư nghì em ạ! Trước khi chia tay, em hãy cùng anh thở và đọc khẽ khổ thơ nhỏ này nhé:

“Dù còn mẹ hay dù mất mẹ

Thì em ơi, em vẫn là con

Xin ấp ủ trọn đời, em nhé

Bóng mẹ hiền giữa trái tim son”.(Trụ Vũ- Ngày của Mẹ). n

Mùa Vu lan - Phật lịch 2555

Những bài thơ Haiku Việt được trích dẫn trong bài viết có xuất xứ từ những tập thơ sau:

1-Tuyển tập thơ Haiku- CLB Thơ Haiku TP. HCM - NXB Lao Động - 2008.

2- Thơ Haiku Việt tuyển chọn- Nhiều tác giả - NXB Văn Học 10-2010.

3- Phiến khúc“Tươi mãi với thời gian”(1, 2) - Lưu Đức Trung - NXB Hội Nhà Văn - 2007, 2008.

4- Cúc rộ mùa hoa- Đông Tùng - NXB Tôn Giáo - 2009.

5- Hương vương chiều tà- Nguyễn Thị Kim - NXB Văn Học 2010.

6- Ngàn cánh mơ rơi- Đông Tùng - NXB Văn Học 01-2010.

7- Bốn mùa hoa- Lưu Đức Trung - NXB Trẻ 7-2010.

8- Thầm thì hương sen- Đỗ Thị Hồng Cúc - NXB Thanh Niên 10-2010.

Nguồn: Nguyệt san Giác Ngộ Số Vu Lan 185 / Tuyển Tập Vu Lan TVHS


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/06/2024(Xem: 3145)
Trong lúc dọn dẹp lại thư viện kinh sách bé nhỏ của mình, người viết vừa nâng niu, vừa bâng khuâng xao xuyến khi nhìn kỹ lại hơn 50 tác phẩm được biên soạn bằng chính năng lực, trí tuệ của quý danh tăng của thế kỷ 20 -21 đã ký tặng( mà người viết cho đấy là sách giáo khoa hàn lâm về Phật Giáo ) với những dòng chữ thật trân quý đầy tinh thần nhân văn cao cả của lý tưởng, lại mang đậm các giá trị đạo đức truyền thống trong Phật Giáo mà trong suốt đời tu học, khoảng 10 năm gần đây người viết mới được tiếp xúc những bậc hiền triết này.
15/06/2024(Xem: 1437)
Sau khi bang Niedersachsen của ông Tiến sĩ Albrecht thu nhận hơn 1.000 thuyền nhân từ chiếc tàu Hải Hồng, phân phối đi các vùng trong bang nhưng đông nhất vẫn là thành phố thủ phủ Hannover. Các thuyền nhân tỵ nạn này vừa từ cõi chết đi lên, nên rất cần một chỗ dựa cho tâm linh. Sau chuyến vượt biên thoát nạn, họ đã cầu nguyện Đức Mẹ Maria cứu vớt nếu là người Công giáo. Còn Phật giáo họ sẽ niệm Mẹ hiền Quán Thế Âm, hai hình tượng đã in sâu vào tâm thức, họ tin chắc hai Vị này đã ra tay cứu độ đưa họ đến bến bờ bình yên.
12/06/2024(Xem: 765)
Lời người chuyển ngữ: Thông thường khi nói đến ngồi thiền hay thực hành chánh niệm chúng ta lập tức nghĩ đến việc ngồi yên, ngồi một cách nghiêm trang và chú tâm vào hơi thở hay những cách khác (tùy theo phương pháp chỉ – quán…). Tuy nhiên chúng ta cũng nghe đến tứ oai nghi đi – đứng - nằm – ngồi, nghĩa là ta có thể giữ chánh niệm trong mọi hoàn cảnh và tư thế, điều này phụ thuộc vào năng lực, ý chí của mỗi cá nhân. Trong lá thư gởi độc giả của tạp chí Lion’s Roar (Sư Tử Hống), ngày 51/05/24 có đề cập đến việc ứng dụng và thực hành chánh niệm trong sự di chuyển động, trong lá thư này có dẫn lời của Francis Sanzaro một nhà leo núi chuyên nghiệp và cũng là một Phật tử đã áp dụng chánh niệm trong việc leo núi. Việc ứng dụng chánh niệm trong sự vận động hàng ngày đôi khi tôi cũng có chút xíu kinh nghiệm. Tôi thường chạy bộ, bơi lội… và giữ chánh niệm và cảm thấy thoải mái dễ chịu hơn là khi ngồi nghiêm trang trước bàn thờ Phật. Tôi nhận thấy mọi người ai cũng có thể áp dụng thực hành chán
12/06/2024(Xem: 737)
Sống ở đời, mọi người chúng ta ai ai cũng đã từng ít nhất một lần buộc miệng than: “Sao khổ vậy trời? Sao khổ thế này?”. Khổ là bản chất của đời sống hiện hữu, khổ là tất yếu vì sự thay đổi của vô thường. Đã sanh làm người, đã sống trong đời thì không thể tránh khỏi khổ, cho dù đó là tỷ phú cực giàu, tổng thống cực quyền hay là kẻ ăn mày khố rách áo ôm. Khổ có vô vàn nhưng chung quy lại không ngoài: Sanh, già, bệnh, chết, muốn mà không được, thương phải chia lìa, ghét phải chung đụng, thân và tâm đầy phiền não như lửa cháy. Khổ vì sanh – tử là điều bất khả kháng, khổ vì những ác nghiệp đã chín muồi thì cũng không thể tránh được, duy cái khổ của sự mong cầu, ham muốn, thèm khát là điều mà chúng ta có thể làm giảm thiểu hoặc tránh được.
04/06/2024(Xem: 943)
Ta lên núi, học làm Tiên nhẫn nhục, Mặc thói đời nhân ngã với thị, phi! Mây có hẹn, mà quên về cũng được, Gió có lay, trăng nghiêng ngã hề chi!
02/06/2024(Xem: 1339)
Một trong những lời dạy của Tuệ Trung Thượng Sĩ thường được đời sau nhắc tới là hãy phản quan tự kỷ. Đó là pháp yếu Thiền Tông. Nghĩa là, nhìn lại chính mình. Câu hỏi chúng ta nêu ra nơi đây là, phản quan tự kỷ thế nào?
30/05/2024(Xem: 938)
Đại Trí Độ Luận nói: “Biển cả Phật pháp, tin thì vào được”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tín làm tay. Như người có tay, đến nơi trân bảo, tùy ý nhặt lấy. Nếu người không tay, chẳng được thứ gì”. Cũng có câu: “Vừa vào cửa tín, liền lên Tổ vị”. “Mũi Tên Xuyên Vách” ra đời góp một niềm tin nhỏ cho người sơ cơ, chắc không tránh khỏi lỗi lầm. Rất mong bạn đọc bốn phương bổ chính để được tốt hơn trong những lần tái bản tới. Xin thành thật tri ân.
24/05/2024(Xem: 9086)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúc và suy tưởng. Những bước chân đơn độc của Thầy đã đi bốn vòng đất nước trong nhiều năm qua, để tu hạnh đầu đà là điều khó làm, không phải ai làm cũng được. Một hình ảnh chưa từng nhìn thấy, dù là trong tiểu thuyết hay phim ảnh: hàng trăm người dân, có khi hàng ngàn người dân, cùng ra phố bước theo Thầy, lòng vui như mở hội, niềm tin vào Chánh pháp kiên cố thêm.
17/05/2024(Xem: 741)
Bảo rằng mới, ừ thì là mới nhưng thật sự thì tháng năm đã từ vô thủy đến giờ. Tháng năm là tháng năm nào? Năm nào cũng có tháng năm, nếu bảo mọi tháng đều là tháng năm thì cũng chẳng sai. Năm, tháng, ngày, giờ… là cái khái niệm con người chế ra, tạm gọi là thế, tạm dùng để đo, đếm cái gọi là thời gian. Bản thân thời gian cũng là một khái niệm như những khái niệm dùng để đo lường nó. Bản chất thời gian là gì thì ai mà biết, nó vốn vô hình, vô tướng, vô trọng lượng, vô sắc, vô thanh… Nó không đầu không cuối và dĩ nhiên cũng không thể nào biết đâu là chặng giữa. Con người, vạn vật muôn loài và thế giới này có hình thành hay hoại diệt thì nó vẫn cứ là nó. Nó chẳng sanh ra và cũng chẳng mất đi.
17/05/2024(Xem: 1615)
Phần này ghi lại vài nhận xét về bản chữ quốc ngữ Sấm Truyền Ca và Lập Quốc Kinh, qua lăng kính của chữ quốc ngữ từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn cùng với các dạng chữ Nôm đồng thời. Rất tiếc là chưa tìm ra bản Nôm Sấm Truyền Ca hay Lập Quốc Kinh, do đó bài này phải dựa vào các dạng chữ quốc ngữ viết tay còn để lại. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài liệu chép tay của LM Philiphê Bỉnh (sđd) và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]