Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Về Với Mẹ Qua Những Bài Haiku Việt

11/08/201102:44(Xem: 3419)
Về Với Mẹ Qua Những Bài Haiku Việt


VỀ VỚI MẸ
QUA NHỮNG BÀI HAIKU VIỆT

Đức Sơn Thái Trọng


Em ơi, anh đã từng đọc những vần thơ đầy sự day dứt của nhà thơ Trụ Vũ khi ông mong muốn diễn đạt một tình yêu dành cho mẹ nhưng đành phải bất lực trước sự giới hạn của ngôn từ và hình ảnh:

… Từ hai mươi năm nay tôi vẫn muốn làm một bài trường ca để ca ngợi mẹ tôi

Nhưng tôi chưa làm được một câu nào

Bởi vì tất cả những vì sao

Không đủ sáng bằng ánh đèn con mà đêm đêm mẹ tôi thường cao soi trên giường tôi để canh nhìn tôi ngủ

Bởi vì tất cả triều hoa từ vạn kỷ không đủ thơm bằng hơi thở mẹ ngạt ngào

Và, bên vô cùng, tôi chỉ có thể làm thinh.

(Trụ Vũ, Ngày của Mẹ- NXB Văn Nghệ TP.HCM)

Nhà thơ Trụ Vũ đã “làm thinh”vì biết ngôn ngữ trần gian không thể chứa đựng được hai tiếng “Mẹ ơi!”.Nhưng “làm thinh”cũng không có nghĩa là im lặng không dám nói thật, không dám thốt lên tiếng nói của trái tim mình. Bởi, hai tiếng “Mẹ ơi!”là linh ngữ, là linh tự, là liều thuốc mầu nhiệm để cứu rỗi, để xoa dịu nỗi đau đời cho những đứa con:“… mỗi khi con tim anh nhức buốt nỗi đau đời. Anh chỉ có một lời để gọi: Mẹ ơi!”(Trụ Vũ- Một lời). Vu lan đã về - “Tháng Bảy mùa trăng, mùa Mẹ lên ngôi”(Thích Thái Hòa). Anh muốn đưa em về thăm mẹ của chúng mình qua những bài thơ Haiku Việt nhỏ bé nhưng chất chứa trong nó là cả một đại dương tình thương dành cho mẹ. Mình đi em nhé!

***

Em ơi, em hãy nhìn kìa: Một em bé đang nằm trong nôi. Em có nhớ ngày mình còn nằm nôi, còn được mẹ ẵm bồng trên tay và ru ngủ không? Lâu quá rồi, anh sợ chắc em không còn nhớ rõ những giây phút đẹp nhất của đời mình. Nhưng may quá em ơi, nhà thơ Nguyễn Thị Kim đã giúp anh nói hộ bằng một bài Haiku để em hiểu:

“Lời ru ầu ơ

bé mơ

bay cùng bướm”.

Tuyệt vời quá phải không em? Lời mẹ ru như một khúc ca, một làn gió mát đưa em bé vào giấc ngủ, đưa em đến với những giấc mơ hồng để trong giấc ngủ mà miệng bé vẫn cười trông thật dễ thương. Và, em ơi, đó cũng là nụ cười của em. Nụ cười đẹp như thiên thần:

“Bên bầu sữa mẹ

miệng bé

nở hoa”. (Nguyễn Thị Kim)

Nụ cười của bé nở hoa trong mắt và cũng nở hoa trong tim Mẹ. Bởi đơn giản một điều: đứa con là niềm tin, là sinh mệnh để Mẹ tồn tại trong cõi đời này. Em còn nhớ nhà thơ Trụ Vũ dặn dò mình gì không? “Mẹ không có sinh mệnh mình. Mẹ chỉ có sinh mệnh mình trong sinh mệnh đứa con mình yêu dấu” (Cõi Mẹ - Trụ Vũ). Vì vậy cho nên Mẹ đã hy sinh tất cả:

Chỗ mẹ nằm

hạt mưa

xuyên mái tranh”.(Nguyễn Thị Kim)

Em ơi, mẹ có thể vì anh, vì em và vì những đứa con thơ ngây của mình mà chấp nhận giá rét của mưa to, bão lớn “chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo phần con”.

Đêm tối cũng là nỗi đe dọa đáng sợ của trẻ thơ. Anh nhớ mẹ đã ôm anh, vỗ về và ru anh ngủ. Sợ con thức giấc, mẹ không dám xoay trở thân mình. Thương lắm em ơi:

“Chiếc gối của con

đôi tay mẹ

sờn theo năm tháng”. (Trúc Anh)

Đôi tay mẹ đã chăm sóc từng miếng ăn giấc ngủ, tần tảo để nuôi anh em mình lớn khôn. Đôi tay ấy nay đã gầy còm, nhăn nheo như chiếc gối sắp rách đi rồi. Em có lần nào nhìn và nâng đôi tay mẹ lên chưa? Hãy áp hai bàn tay của Mẹ vào đôi má mình, em sẽ thấy nó thô ráp không còn mịn màng như thời mẹ còn son trẻ nữa. Sự bào mòn nghiệt ngã của thời gian, của vất vả, khổ cực đã lấy đi tất cả vẻ đẹp tuổi thanh xuân. Đâu chỉ có thế em, mẹ cũng vì chúng ta mà gánh chịu bao khổ nạn của đời:

“Hàng rong

vai mẹ gánh

đời bão giông”. (Đông Tùng)

Cái dáng cô đơn, còm cõi, co ro của mẹ giữa chợ đời đã in hằn trong tâm trí anh. Chỉ thoáng hiện qua trong bài thơ nhưng hình ảnh ấy đã có mặt suốt nghìn xưa cho đến nghìn sau. Bởi vì, nó bảo chứng cho sự kham nhẫn, lòng thương yêu của mọi mẹ hiền nơi trời Âu cũng như đất Á.

Có một người mẹ gánh hàng rong trong phiên chợ nghèo thì cũng có một người mẹ trên đồng cạn, dưới đồng sâu:

“Gió đông

lưng mẹ còng

che lúa”. (Nguyễn Thị Kim)

Một mình giữa đồng với cái lạnh của gió mùa đông, Mẹ chăm sóc ruộng lúa để giành lại bát cơm cho con trẻ no lòng. Lưng mẹ còng đi để cho anh em mình cao lớn lên… Anh chợt nhớ đến một hình ảnh:

“Đồng khuya

cánh vạc

mẹ già”.(Lê Đình Công)

Em ơi, hình ảnh mẹ một mình trên đồng vắng ấy giống như hình ảnh một cánh cò cô đơn, run rẩy trong ca dao một thuở mà anh em mình đã học. Sự tần tảo, kham nhẫn không lời ấy đã là một đức tính của người mẹ Việt Nam muôn thuở. Em sẽ càng xót lòng khi nhìn thấy một mùa vàng trên những thửa ruộng mà cũng chỉ đơn độc một mình mẹ:

“Nắng gắt

lưng rang

mẹ gặt”. (Nguyễn Thị Kim)

“Lưng mẹ còng / che lúa”rồi “lưng rang / mẹ gặt”. Chỉ mình mẹ thôi sao? Chỉ một mình mẹ phải làm lụng tất cả trong im lặng, không thở than. Hai từ “lưng rang”đủ diễn tả cái nắng gay gắt và cũng đủ để anh em mình thấm thía nỗi cơ cực mà mẹ phải gánh chịu. Anh đã rơi nước mắt khi ngồi một mình ngẫm nghĩ về bài thơ này. Bởi, mẹ của anh cũng là một người phụ nữ chân lấm tay bùn quanh năm suốt tháng với ruộng đồng, vườn rau, chái bếp không một phút ngơi tay suốt 30 năm rồi! Mẹ đã đánh đổi tất cả những niềm vui riêng tư nhất của mình để mang đến hạnh phúc cho anh. Anh chợt nhớ có hai câu thơ của một người không quen biết đã viết một cách thật thấm thía như sau:

“Mẹ ném thân mình vào gió bụi

Một đời cật lực chạy nuôi con”. (Võ Minh Trang - Tạ ơn giọt lệ)

Tác giả chắc hẳn không phải là một nhà thơ nhưng hiện thực trong hai câu thơ khiến anh thật sự xúc động… Nó thật như đời Mẹ của anh.

***

Em ơi, hình như đứa con nào rồi cũng rời xa mẹ. Con gái thì như lời thơ Nguyễn Bính: “Gái lớn, ai không phải lấy chồng” (Nguyễn Bính - Lòng mẹ). Khóc rồi lạy mẹ mà đi về nhà người để lại mình mẹ với bao lo lắng ngổn ngang:

“Đưa con ra đến cửa buồng thôi

Mẹ phải xa con, khổ mấy mươi

Con ạ, đêm nay mình mẹ khóc

Đêm đêm mình mẹ lại đưa thoi...”.

Còn con trai, có đứa phiêu bạt tha phương không biết ngày về: “Con ra đi xa vòng tay của mẹ / Sống tự do như một chú chim bằng” (Nhớ Mẹ - Đỗ Trung Quân). Cũng có đứa ở ngay cạnh bên mà lạnh lùng hờ hững như Mẹ chưa từng có mặt…

Em có biết mẹ thường sợ nhất điều gì không? Sự cô đơn trong chính căn nhà mình đó em. Em hãy nghe kìa:

“Phong linh

năm canh thao thức

mẹ tôi một mình”. (Đông Tùng)

Tiếng phong linh hay là tiếng thở dài của mẹ vì thương nhớ con suốt năm canh? Nhà thơ Đông Tùng đã rất tinh tế và sâu sắc khi mượn hình ảnh chiếc chuông gió nơi hiên nhà mà nói lên tâm trạng cô đơn của mẹ mình. Có người hiểu, có người dường như lãng quên vì vô tư quá đỗi. May mắn thay, anh vẫn còn bắt gặp những vần thơ, những nỗi lòng khắc khoải của đứa con xa Mẹ:

“Dáng mẹ ngồi

tựa cửa

ngó mây xa”. (Đỗ Thị Hồng Cúc)

Người con gái có tên loài hoa mùa thu ấy đã bước sang bên kia con dốc của đời, xa quê, xa Mẹ nhiều năm và đã làm mẹ nên mới hiểu một cách thấm thía như vậy. Cái dáng mẹ “ngồi tựa cửa”ấy không riêng dành cho tác giả Hồng Cúc. Nhà thơ họ Đỗ cũng từng thảng thốt giật mình nhận ra: “Ta quên mất thềm xưa dáng mẹ ngồi chờ / Giọt nước mắt già nua không ứa nổi / Ta mê mải trên bàn chân rong ruổi / Mắt mẹ già thầm lặng dõi sau lưng…”. đó cũng là mẹ của anh em mình. Em có biết là anh sợ bắt gặp hình ảnh mẹ thẩn thờ tựa cửa trông anh về lắm không? Cái dáng khổ hạnh đó đã ám ảnh và khắc chạm trong tim anh một sự hối hận vô cùng. Đừng để mẹ phải ngồi một mình nơi cửa, tội lắm em ơi!

Cũng trên bước đường đời ấy, có một lời thơ làm anh xúc động quá đỗi:

“Đường con đi

có bàn chân mẹ

tím trời lưu ly”. (Lưu Đức Trung)

Còn hạnh phúc nào hơn khi con bước trên đường đời mà có mẹ đỡ nâng? Với nhà thơ Lưu Đức Trung, đó có thể là một hồi ức tuyệt đẹp và thiêng liêng nhất. Tuổi gần bát thập, người con vẫn vọng ngưỡng về Mẹ như cần một sự chở che, chia sẻ. Bởi vì “Con dù lớn vẫn là con của mẹ” mà! (thơ Chế Lan Viên). Vì là con của mẹ nên trong con có mẹ và trên mỗi bước đường mẹ vẫn theo con!

***

Nhạc sĩ Trần Long Ẩn viết: “Mỗi mùa xuân sang mẹ tôi già thêm một tuổi / Mỗi mùa xuân về ngày tôi xa mẹ càng gần…”. Em đã không nhận ra mẹ đang ngày một gầy mòn đi vào thời trẻ đã đành, nhưng em phải nhìn thấy:

“Lá thu rơi

trong hoàng hôn vắng

tuổi đời mẹ tôi”.(Đông Tùng)

Mượn hình ảnh những chiếc lá chín trên cành và rơi lẻ loi vào một buổi chiều thu vắng, nhà thơ muốn nhắc nhở những đứa con tức khắc phải nhìn lại, phải quay về ngay bên cạnh Mẹ mình. Mẹ đã già yếu lắm, con đừng vô tư đến mức vô tâm mà nghĩ rằng Mẹ vẫn như ngày xưa!

Rồi một ngày nào đó, anh và em cũng phải thốt lên tiếng nấc nghẹn ngào khi Mẹ ra đi:

“Trái chín rụng rồi

bao giờ được gọi

má ơi!”.(Đoàn Thị Thu Vân)

“Mẹ già như chuối chín cây / Gió lay mẹ rụng con phải mồ côi”. Lời thơ hòa cùng lời bài hát đều nói lên sự thương tiếc mẹ. Có giọt lệ chảy trên má mà cũng có giọt lệ chảy trong tim. Tất cả chỉ mong kiếm tìm lại hình bóng mẹ yêu để được gọi hai tiếng thân thương: Mẹ ơi!

Mẹ giờ đây đã trở về cát bụi, đã yên nghỉ sau một đời vất vả vì chồng, vì con:

“Khung trời dệt nắng

đồi cao mẹ nằm

kìa bông sim tím”.(Lê Thị Bình)

Hoa sim tím dung dị và cũng thủy chung son sắt như đời Mẹ. Vậy là, với con:

“Vu lan mùa này

áo cài hoa trắng

côi cút từ đây”.(Đông Tùng)

Hình như tất cả mọi đứa con khi mất mẹ đều có chung tâm trạng như vậy, Thiền sư Nhất Hạnh đã nói hộ những người con không có may mắn còn mẹ như mình: “Dù tôi đã lớn đến cách mấy mà khi đã mất mẹ thì cũng như đứa trẻ, cũng cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, cũng không hơn gì trẻ mồ côi”(Bông hồng cài áo). Rồi mai kia mốt nọ, có những giây phút bất chợt kỷ niệm xưa ùa về:

“Nhặt cây kim rỉ

Mẹ ơi!

áo con rách vai”.(Lưu Đức Trung)

Ôi, hai tiếng “Mẹ ơi!”được thốt lên như ngày xưa: “Mẹ ơi! áo con rách vai”. Mẹ khẽ mỉm cười và bảo: “Để chốc nữa mẹ vá lại cho”. Ngày xưa… ngày xưa… hiện về trong ký ức của một người già. Đứa con thơ dại năm nào giờ đã là cha, là ông với mái đầu bạc trắng. Em hãy nhìn hình ảnh một ông già tình cờ nhặt được cây kim rỉ mà nước mắt lưng tròng nhớ mẹ mình ngày xưa! Hiện tại và quá khứ được nối kết với nhau bằng tiếng gọi thân thương “Mẹ ơi!”. Chỉ khác rằng ngày xưa có mẹ, còn giờ đây…

Mùa Vu lan người ta làm thơ và hát những ca khúc dành tặng mẹ. Liệu có mấy ai nhớ rằng mẹ đã hát ru con cả tuổi thanh xuân của mình, đã dỗ dành khi con vấp ngã trên đường đời? Ru và dỗ… Những điệp khúc của trái tim mẹ cứ ngân vang cho đến khi sức kiệt hơi tàn. Mẹ đã lấy đời mình để dệt thành bản trường ca huyền thoại mà chúng ta nào có biết đâu!

***

Em à, người ta nói thơ Haiku là thể thơ truyền thống của người Nhật. Đây là một thể thơ cực ngắn, cô đọng, hàm súc. Một bài thơ chỉ có 3 dòng, 17 âm tiết. Nội dung Haiku thường hướng về thiên nhiên bốn mùa và nội tâm cá thể để phản ảnh. Sang đến Việt Nam, đất nước mình giàu tình cảm nên thơ Haiku cũng giàu âm điệu, hình ảnh. Haiku Việt đã ghi những dấu ấn đầu tiên trên trang sách thi ca nước nhà. Những bài thơ mà anh em mình vừa đọc trong tình yêu và sự ngưỡng vọng về mẹ là những bài Haiku phản ánh được tâm hồn Việt. Dù chỉ có vỏn vẹn vài từ, nhưng hình ảnh Người Mẹ Việt Nam từ ngàn đời nay vẫn có mặt với đầy đủ những đức tính riêng nhất, đẹp nhất của dân tộc mình.

Anh không phải là người nghiên cứu thơ Haiku Việt. Bằng trái tim của một đứa con, anh cảm nhận những bài Haiku trên dù được viết trong nhiều hoàn cảnh khác nhau nhưng tất cả chỉ có cùng một cung bậc cảm xúc là thành kính, thương yêu mong muốn thốt lên hai tiếng: Mẹ ơi! Ngôn từ có thể bị giới hạn nhưng cái không lời kia mới là điểm đến của những trái tim yêu thương mẹ. Bởi vì, nói đến mẹ, đến Tình Mẹ là nói đến cái vô cùng. Ai có thể diễn tả được cái vô cùng ấy hả em? Nhưng dù sao, những bài Haiku Việt gói trong lòng bàn tay ấy cũng đủ góp vào mùa Vu lan một tiếng nói: Con yêu mẹ!Nó đủ nhen lên một ngọn lửa nhỏ ấm áp trong tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt này!

Có bài thơ là nụ cười hạnh phúc như cánh hoa hồng đỏ mà em đang nâng niu. Nhưng cũng có bài là giọt lệ lăn dài trên má, là nỗi nhức nhối trong tim như cánh hoa hồng trắng trên ngực áo những ai không có may mắn còn mẹ trên đời. Em có thấy điều anh vừa nhìn ra không? Những bài Haiku Việt nhỏ bé như dáng mẹ gầy, mong manh như hơi thở yếu ớt của mẹ; như cánh hoa hồng trên ngực áo anh em mình. Gió có thể thổi bay chúng; gót chân đời có thể giày xéo nát những cánh hoa nhưng nó vẫn còn đó, vẫn hiện hữu trong trời đất này như tình mẹ thương con và tình thương mà con dành cho mẹ. Đó là điều bất khả tư nghì em ạ! Trước khi chia tay, em hãy cùng anh thở và đọc khẽ khổ thơ nhỏ này nhé:

“Dù còn mẹ hay dù mất mẹ

Thì em ơi, em vẫn là con

Xin ấp ủ trọn đời, em nhé

Bóng mẹ hiền giữa trái tim son”.(Trụ Vũ- Ngày của Mẹ). n

Mùa Vu lan - Phật lịch 2555

Những bài thơ Haiku Việt được trích dẫn trong bài viết có xuất xứ từ những tập thơ sau:

1-Tuyển tập thơ Haiku- CLB Thơ Haiku TP. HCM - NXB Lao Động - 2008.

2- Thơ Haiku Việt tuyển chọn- Nhiều tác giả - NXB Văn Học 10-2010.

3- Phiến khúc“Tươi mãi với thời gian”(1, 2) - Lưu Đức Trung - NXB Hội Nhà Văn - 2007, 2008.

4- Cúc rộ mùa hoa- Đông Tùng - NXB Tôn Giáo - 2009.

5- Hương vương chiều tà- Nguyễn Thị Kim - NXB Văn Học 2010.

6- Ngàn cánh mơ rơi- Đông Tùng - NXB Văn Học 01-2010.

7- Bốn mùa hoa- Lưu Đức Trung - NXB Trẻ 7-2010.

8- Thầm thì hương sen- Đỗ Thị Hồng Cúc - NXB Thanh Niên 10-2010.

Nguồn: Nguyệt san Giác Ngộ Số Vu Lan 185 / Tuyển Tập Vu Lan TVHS


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/08/2021(Xem: 19784)
Tiếng chuông chùa vang lên để xoa dịu, vỗ về những tâm hồn lạc lõng, bơ vơ. Hồi chuông Thiên Mụ, mái chùa Vĩnh Nghiêm một thời chứa chan kỷ niệm. Đó là lời mở đầu trong băng nhạc Tiếng Chuông Chùa do Ca sĩ Thanh Thúy trình bày và ấn hành tại hải ngoại vào đầu thập niên 80. Thanh Thúy là ca sĩ hát nhạc vàng, đứng hàng đầu tại VN trước năm 1975. Cô là đệ tử của HT Nguyên Trí ở chùa Bát Nhã, California. Khi Thầy còn ở VN cuối thập niên 80 có đệ tử ở bên Mỹ đã gởi tặng Thầy băng nhạc Tiếng Chuông Chùa này. Hôm nay Thầy nói về chủ đề Tiếng Chuông Chùa, hay tiếng Chuông Đại Hồng Chung. Đại Hồng Chung là một cái chuông lớn được treo lên một cái giá gỗ đặt trong khuôn viên chùa hay trong Chánh điện. Hồng Chung là một pháp khí linh thiêng, là một biểu tượng đầy ý nghĩa của Phật giáo, nên chùa nào cũng phải có, lớn hay nhỏ tùy theo tầm cỡ của mỗi chùa. Hàng ngày Đại Hồng Chung được thỉnh lên vào buổi chiều tối, báo hiệu ngày
27/07/2021(Xem: 12179)
Thật không ngờ trong bối cảnh xã hội mà toàn cầu thế giới đang khẩn trương đối phó với đại dịch kinh hoàng của thế kỷ 21 thế nhưng những người con đầy tâm huyết của Đức Thế Tôn chỉ trong nửa năm đầu 2021 đã thành lập được hai trang Website Phật học tại hải ngoại : Thư viện Phật Việt tháng 2/2021. do nhóm cư sĩ sáng tạo trang mạng của HĐHP, ( hoangpháp.org ) do ban Báo chí và xuất bản của Hội đồng Hoằng pháp tháng 6/2021 thành lập với sự cố vấn chỉ đạo của HT Thích Tuệ Sỹ Từ ngày có cơ hội tham học lại những hoa trái của Phật Pháp ( không phân biệt Nguyên Thủy, Đại Thừa ) , Tôi thật sự đã cắt bỏ rất nhiều sinh hoạt ngày xưa mình yêu thích và để theo kịp với sự phát triển vượt bực theo đà tiến văn minh cho nên đã dùng toàn bộ thời gian còn lại trong ngày của một người thuộc thế hệ 5 X khi về hưu để tìm đọc lại những tác phẩm , biên soạn, dịch thuật của Chư Tôn Đức,qua Danh Tăng, Học giả nghiên cứu khắp nơi .
26/07/2021(Xem: 8503)
Hòa thượng thế danh là Nguyễn Minh Có, pháp danh Huệ Đạt, pháp hiệu Hoàn Thông, sinh năm Đinh Tỵ (1917) triều Khải Định năm đầu, tại ấp Hội An, xã An Phú Tân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, trong một gia đình nông dân nghèo. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Phuông, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Sửu, Ngài mồ côi cha lúc 13 tuổi. Thiện duyên đưa đến cho hạt mầm Bồ đề trong tâm Ngài phát triển. Năm 1930, trong thân tộc có ông Hồ Trinh Tương, gia tư khá giả, phát tâm phụng sự Tam Bảo, xuất tiền của xây một ngôi chùa, lấy hiệu là Hội Thắng Tự. Ông xuất gia đầu Phật, húy là Tường Ninh, pháp danh Đắc Ngộ, pháp hiệu Niệm Hưng và làm trú trì chùa này để hoằng dương đạo pháp. Ngài được thân mẫu cho phép xuất gia với Sư cụ trú trì chùa Hội Thắng khi vừa mồ côi cha, được ban pháp danh Huệ Đạt. Năm 16 tuổi (1933) Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa Di.
25/07/2021(Xem: 5510)
Mấy ngày nay trên Facebook có chia sẻ lại câu chuyện (nghe nói là xảy ra năm 2014) về cô bé đã “ăn cắp” 2 cuốn sách tại một nhà sách ở Gia Lai. Thay vì cảm thông cho cô bé ham đọc sách, người ta đã bắt cô bé lại, trói 2 tay vào thành lan can, đeo tấm bảng ghi chữ “Tôi là người ăn trộm” trước ngực, rồi chụp hình và bêu rếu lên mạng xã hội. Hành động bất nhân, không chút tình người của những người quản lý ở đây khiến ta nhớ lại câu chuyện đã xảy ra cách đây rất lâu: một cậu bé khoảng 14-15 tuổi cũng ăn cắp sách trong tiệm sách Khai Trí của bác Nguyễn Hùng Trương, mà người đời hay gọi là ông Khai Trí. Khi thấy lùm xùm, do nhân viên nhà sách định làm dữ với cậu bé, một vị khách ôn tồn hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện, tỏ vẻ khâm phục cậu bé vì học giỏi mà không tiền mua sách nên phải ăn cắp, ông đã ngỏ lời xin tha và trả tiền sách cho cậu.
23/07/2021(Xem: 18181)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
22/07/2021(Xem: 3594)
Tạp chí Nghiên cứu Phật học, một trong những tạp chí nghiên cứu học thuật về Phật giáo tại Hoa Kỳ, đã có buổi lễ ra mắt các thành viên trong Ban Biên tập và nhận Quyết định Bản quyền Nghiên cứu Học thuật từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 7 năm 2020, Thầy Thích Giác Chinh, người đảm nhận vai trò Sáng lập kiêm Tổng biên tập, đã nhận được Thư chấp thuận cấp mã số ISSN từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ: Tạp chí Nghiên cứu Phật học in: ISSN 2692-7357 Tạp chí Nghiên cứu Phật học Online: eISSN 2692-739X Ngôn ngữ: Tiếng Anh.
11/07/2021(Xem: 7153)
Tháng vừa rồi, tôi dành thời gian để đọc và suy ngẫm về cuốn sách “Tìm bình yên trong gia đình”. Đơn giản bởi tôi và nhiều chúng ta đã dành quá nhiều thời gian hướng ngoại và đôi khi quên mất gia đình. Đôi khi giật mình, đã không đầu tư đủ thời gian cho ngôi nhà của mình, đã không biết cách để bình yên luôn có trong ngôi nhà thân thương của mình. Cảm quan về tựa đề sách và trang bìa của cuốn sách khiến tôi có cảm giác như được bước vào một thế giới với những trang sách tràn ngập nội dung bình yên, giúp tôi được bồng bềnh nhẹ tựa mây. Đọc sách, tôi giật mình: Những bước chân trên cuộc hành trình TÌM BÌNH YÊN TRONG GIA ĐÌNH trong cuốn sách thực sự không hẳn êm đềm như những gì tôi tưởng tượng. Sau khi đọc hết một nửa chương sách. Mình đã phải dừng lại hồi lâu. Bởi vì quá xúc động!
16/06/2021(Xem: 19138)
Thời gian như đến rồi đi, như trồi rồi hụp, thiên thu bất tận, không đợi chờ ai và cũng chẳng nghĩ đến ai. Cứ thế, nó đẩy lùi mọi sự vật về quá khứ và luôn vươn bắt mọi sự vật ở tương lai, mà hiện tại nó không bao giờ đứng yên một chỗ. Chuyển động. Dị thường. Thiên lưu. Thiên biến. Từ đó, con người cho nó như vô tình, như lãng quên, để rồi mất mát tất cả... Đến hôm nay, bỗng nghe tiếng nói của các bạn hữu, các nhà tri thức hữu tâm, có cái nhìn đích thực rằng: “Đạo Phật và Tuổi Trẻ.” “Phật Việt Trong Lòng Tộc Việt.” “Dòng Chảy của Phật Giáo Việt Nam” hay “Khởi Đi Từ Hôm Nay.” Tiếng vang từ những lời nói ấy, đánh động nhóm người chủ trương, đặt bút viết tâm tình này. Đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam hai ngàn năm qua, đã chung lưng đấu cật theo vận nước lênh đênh, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, luôn đồng hành với dân tộc. Khi vua Lê Đại Hành hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận nước như thế nào, dài ngắn, thịnh suy? Thì Thiền sư Pháp Thuận đã thấy được vận nước của quê hương mà
10/06/2021(Xem: 13481)
Biên cương thế giới ngày nay bị thu hẹp với nền viễn thông liên mạng tân tiến, trong khi nhận thức của các thế hệ trẻ lại được mở rộng và sớm sủa hơn, khiến niềm tin và lẽ sống chân thiện dễ bị lung lay, lạc hướng. Thông tin đa chiều với sự cố ý lạc dẫn từ những thế lực hoặc cá nhân vị kỷ, hám lợi, thúc đẩy giới trẻ vào lối sống hời hợt, hiểu nhanh sống vội, ham vui nhất thời, tạo nên hỗn loạn, bất an trên toàn cầu. Trước viễn ảnh đen tối như thế, con đường hoằng pháp của đạo Phật rất cần phải bắt nhịp với đà tiến của nền văn minh hiện đại, nhằm tiếp cận với từng cá nhân, quân bình đời sống xã hội, giới thiệu và hướng dẫn con đường mang lại an vui hạnh phúc cho mình, cho người. Đó là lý do dẫn đến cuộc họp mở rộng giữa chư tôn đức Tăng Ni, Cư sĩ và Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử VN tại hải ngoại và Việt Nam, được tổ chức vào lúc 08:50 PM ngày 08/5/2021 qua chương trình Zoom Online, để rồi đồng thuận tiến đến việc thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp. Hội Đồng Hoằng Pháp bao gồm nhiều
10/06/2021(Xem: 4596)
Mỗi lần đến chùa Vạn Phước, dù không chú ý, Phật tử ai ai cũng thấy Thầy Từ An, phó Trụ Trì chùa, mỗi ngày, ngoài những thời kinh, khóa tu, rảnh rỗi Thầy ra sân chùa cặm cụi nhổ cỏ gấu hết cây này đến cây kia, hết chỗ này đến chỗ nọ. Cứ xoay vần như thế ngày này qua tháng khác, năm này sang năm kia rồi khi cỏ gấu mọc lại, Thầy lại tiếp tục nhổ như một hạnh nguyện. Đặc biệt nữa, cứ mỗi lần nhổ xong một cây cỏ gấu, Thầy thường lẩm nhẩm: “Nhổ này một cây phiền não..., nhổ này một cây phiền não...“. Nhưng Thầy nhổ không bao giờ hết, vì cỏ gấu vốn là một loại cỏ dại, đã là cỏ thì rất khó tiêu diệt. Nếu xịt thuốc chỉ cháy lá hoa ở phần trên, rễ vẫn còn ở phần dưới, thậm chí có nhổ tận gốc nhưng chỉ cần sót lại một chút thân, rễ, một thời gian sau cỏ vẫn mọc lại như thường; chỉ trừ duy nhất tráng xi măng lót gạch, cỏ không còn đất sống may ra mới dứt sạch.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]