Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

HÃY HỌC ĐIỀU CẦN HỌC - Tấn Nghĩa

07/01/201104:59(Xem: 3541)
HÃY HỌC ĐIỀU CẦN HỌC - Tấn Nghĩa

HÃY HỌC ĐIỀU CẦN HỌC
Tấn Nghĩa

Chuyện Tiền thân Bahiya (Jàtaka 420) kể lại rằng : “Thuở xưa, khi vua Bramadatta trị vì ở Ba-la-nai, Bồ-tát là một vị đại thần của triều đình. Có một nữ nhân thôn quê thân thể béo mập, ăn mặc lôi thôi, làm công ăn lương, đang đi ngang qua gần sân của nhà vua, cảm thấy thân bị bức bách ngồi xuống lấy áo đắp che thân, giải toả sự bức bách của thân và nhanh nhẹn đứng dậy”.

Câu chuyện bắt đầu rất bình thường, nói về một hoạt động cũng… bình thường của con người ( nhưng lại ít được đề cập trong truyện, phim,…) là vấn đề đi vệ sinh.

Một cô gái thuộc tầng lớp nghèo đi ngang qua cung điện nhà vua mà muốn…đi vệ sinh. Cô ngồi xuống, lấy áo che thân cẩn thận, đi xong và đứng dậy nhanh nhẹn. Câu chuyện chỉ thế thế, rất…rất nhạt nhẽo. Thế nhưng, có điều gì cần suy ngẫm?

Con người ta thường có hai cách xử sự. Một cách công khai, hình thức, mang tính giao tiếp. Người Anh gọi đó là cách xử sự formal. Một cách khác, mang tính riêng tư, cá nhân, không…phổ biến cho người khác. Tiếng Anh gọi đó là cách xử sự informal. Điều này thấy rõ trong các hoạt động ngoại giao. Nhà ngoại giao có thể bắt tay, trò chuyện vui vẻ, nhưng trong chỗ tiêng tư có thể chửi bới hạ nhục nhau. Nhà ngoại giao có thể bên ngoài thì khen ngợi nhưng trong bụng thì… chửi thề. Trong những ngày gần đây, Wikileaks công bố các trang tài liệu mật, phổ biến cho bàn dân thiên hạ cái thể hiện đằng sau các nghi thức ngoại giao đẹp đẽ. Tình trạng phải có các cư xử formal và informal làm cho con người ta phải sống một cuộc sống hai mặt. Mọi người cũng quen với tính trạng đó và cho đó là bình thường, lẽ đương nhiên phải là như vậy.

Một loại suy nghĩa khác thể hiện tình trạng hai mặt. Một người khách đến nhà chơi được tiếp đón nồng hậu, lịch sự. Trong khi đó, đối xử với người nhà thì lạnh nhạt, bất lịch sự. Khách đền nhà chơi thì chỉ trong thoáng chốc, vậy mà được đối xử tử tế. Còn người cùng sống với ta, sao lại không tử tế như đối với khách để cuộc đời hạnh phúc hơn một chút.

Vậy thì cách xử sự của cô gái này có điểm gì lạ? Cô xử sự một cách formal ở nơi không ai thấy, nghĩa là trong bối cảnh informal. Đây chính là điểm đặc biệt của đoạn văn này. Nó cũng thể hiện quan điểm chung của Phật học: con người ta không nên sống hai mặt, cái thể hiện ra cũng đúng là cái ta suy nghĩ. Xử sự ở nơi công cộng cũng giống như ở một mình. Nếu ban khen một người, thì đó cũng phải là điểm đáng khen thật sự. Nếu bạn lịch sự với một người thì đó cũng phải do sự tôn trọng Phật tính bên trong con người đó. Nếu bạn nói điều mà bạn không nghĩ như thế thì đó là tội nói dối. Nếu bạn tử tế với người ngoài thì cũng nên tử tế với người cùng sống với mình.

Lúc bấy giờ vua Ba-la-nai, ngang qua cửa sổ đang nhìn xuống. Vua thấy nữ nhân ấy liền suy nghĩ: Người này trong khi giải toả sự bức bách của thân tại sân vua như vậy, vẫn biết tránh các lỗi lầm và nguy hại của lỗi lầm, dùng áp đắp che đậy, giải toả bức bách xon đứng dậy một cách nhanh nhẹn.

Nhà vua đã thấy hành động của cô gái. Bằng kinh nghiệm trị vì của mình, vua nhận thấy cá điểm đặc biệt trong hành vi của cô. Dù không có ai, cô cũng hành động một cách cẩn trọng, không buông tuồng. Ngày xưa, các vụ lớn tuổi, khi dựng vợ gả chồng cho con cái cũng sử dụng biện pháp “quan sát thực tế” hay “coi mắt” để có thể thấy được các hành vi…informal của…đối tác. Vua suy đoán:

Nữ nhân này chắc chắn khoẻ mạnh, nhà cửa nữ nhân này sạch sẽ. Với nhà cửa sạch sẽ, nếu có một đứa con thì đứa con ấy sẽ được sạch sẽ và sống có giới đức. Ta phải đặt người này lên làm hoàng hậu.

Nhà vua đang thực hiện công đoạn của một nhà tướng số. Các sách nhân tướng đều phát triển theo dạng: “người có tướng X” thì “có tính tình, đặc tính Y”. Chẳng hạn, có sách ghi: “người hay rung đùi thì tán tài”. Sách nhân tướng ấy không có câu trả lời. Hỏi đi hỏi lại, thầy tướng số sẽ trả lời : “các bậc tiên thánh, cổ nhân nói như vậy. Nghiệm đi nghiệm lại thì vẫn thấy đúng”. Nghĩa là : “lời cổ nhân là tiên đề, đừng hỏi nữa”. Thế là, môn tướng số trở thành loại “ khoa học huyền bí”.

Câu hỏi “tại sao có tướng X ấy thì có đặc tính Y” không được các sách tướng số trả lời.

Có chuyện kể rằng: một nhà tướng số quan sát thấy một vị chẳng có tướng gì quý, nhưng lại là người có nhiều trọng trách. Vị tướng số này thắc mắc và tìm mọi cách thâm nhập là gia nhân của vị kia. Cho đến một ngày, nhà tướng số thấy được quý tướng (ví như nốt ruồi son…) ẩn tàng của vị kia, bèn “ à thì ra là vậy”. Câu chuyện nghe rất hay, tuy nhiên, suy nghĩ của nhà tướng số cố một số “ tiên đề” :

- Mỗi người tài đều có quý tướng
- Quý tướng đó phải thể hiện trên thân thể.

Thế nhưng, cũng các nhà tướng số lại lưu truyền câu: “ tướng tuỳ tâm sinh, tướng tuỳ tâm diệt”. Đó là nhận xét đỉnh cao của các nhà tướng số. Nếu “ tướng tuỳ tâm sinh” thì một câu hỏi căn bản của nhân sinh cũng được đặt ra : “ bằng cách nào có được quý tướng ấy?”. Nếu “tướng tuỳ tâm diệt” thì câu hỏi đặt ra cũng là “bằng cách nào làm mất cái tướng hạ tiện mà mình đang có”. Cái “quý tướng, tiện tướng” biến động theo tâm như vậy thì làm sao mà rút ra quy luật? Các nhà tướng số không trả lời câu hỏi này. Họ chỉ là những nhà hiện tượng học. Cau hỏi đó đánh dấu điểm cuối của môn nhân tướng học. Muốn trả lời nó, cần phải bắt đầu một con đường khác. Điểm cuối của nhân tướng học cũng là điểm bắt đầu của Phật học.



Bài kệ đầu tiên của kinh Pháp Cú (phẩm Song yếu) mà mọi Phật tử đều thuộc lòng, viết :

Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ, ý tạo

Suy đoán về con người qua tướng của họ cũng chỉ là một cách làm gián tiếp , không theo dõi được các diễn biến của “tâm”, nguồn gốc của các tướng. Phật học dặn rằng, đừng xem tướng mạo bên ngoài( lầm chết được!) mà hãy quan sát trực tiếp hành vi. Đoạn văn trong Jàtaka trên tuy đơn giản nhưng lại đi vào điểm khác biệt sâu xa của cách xem tướng trên nhân quả của Phật học. Đức Phật nói:

“Tướng của người ngu ở trong hành động( của mình); Tướng của người trí ở trong hành động( của mình)…Có ba pháp nàà, này các Tỷ- kheo, là đặc tính của người ngu, là tướng trạng của người ngu, là ấn tích của người ngu. Thế nào là ba? Ở đây này các Tỷ -kheo, kẻ ngu suy nghĩ ác, nói ác và làm ác. Nếu người ngu này, này các Tỷ- kheo, không suy nghĩ ác, không nói ác và không làm ác, thời lấy gì người hiền trí biết được rằng: “ người này là kẻ ngu, không phải bậc chân nhân?” Vì rằng, này các Tỷ - kheo, người ngu suy nghĩ ác, nói ác và làm ác, nên người hiền trí biết được :“ người này là kẻ ngu, không phải bậc chân nhân”. Có những pháp này, này các Tỷ- kheo, là đặc tính của người ngu, là tướng trạng của người ngu, là ấn tích của người ngu.

Có ba pháp này, các Tỷ- kheo, là đặc tính của người hiền trí, là tướng trạng của người hiền trí, là ẩn tích của người hiền trí. Thế nào là ba? Ở đây này các Tỷ- kheo, người hiền trí suy nghĩ thiện, nói thiện và làm thiện. Nếu người hiền trí này, này các Tỷ- kheo, không suy nghĩ thiện, không nói thiện và không làm thiện, thời lấy gì người hiền trí kia biết được: “ người này là người hiền trí, bậc chân nhân?”. Vì rằng, này các Tỷ- kheo, người hiền trí suy nghĩ thiện, nói thiện và làm thiện , nên người hiền trí kia biết được: “ người này là người hiền trí,bậc chân nhân”. Có những pháp này, này các Tỷ- kheo, là đặc tính của người hiền trí, là ấn tích của người hiền trí” (Tăng Chi Bộ kinh, tập1, Chương 3 : Ba pháp, phẩm Người ngu)

Như vậy, từ một quan sát về hành vi nhỏ, nhà mua suy đoán các đặc tính về lối sống của cô gái. Việc lối sống không mang tính hai mặt là một điểm đặc biệt, không phải dễ kiếm. Vua nghĩ rằng nàng có thể làm hoàng hậu cho mình. Như thế, chỉ nhờ việc cẩn thận trong những việc nhỏ nhặt mà cô gái được nhà vua phong làm hoàng hậu.

Các suy luận thực tiễn và hướng tới lợi ích như vậy cũng là một đặc điểm của Phật học. Ngày nay, phim, tiểu thuyết, báo chí…luôn nói tới “ tình yêu” trong việc tiến tới ngôn nhân, xem đó như là điều kiện tiên quyết và là yếu tố giải quyết mọi vấn đề. Nếu hỏi “ có tình yêu để làm gì?”, câu trả lời hẳn phải là “ để gia đình hạnh phúc”. Vậy thì hạnh phúc mới là cái cần phải quan tâm. Tuy nhiên, hạnh phúc cần nhiều yếu tố, mà trong đó “ tình yêu” chỉ là một. Phật học chỉ cho người ta cách suy nghĩ thực tế hơn, quan sát nếp sống của người mà ta định chọn để lập gia đình: người này có mạnh khoẻ không? Ăn ở có sạch sẽ không? Nếp sống có giới đức hay không?

Nhà vua, sau khi biết được nữ nhân này chưa thuộc sở hữu của ai, bèn cho gọi nữ nhân ấy đến và đặt vào địa vị hoàng hậu. Nàng trở thành người vua yêu thương và ưa thích. Khong bao lâu nàng sanh được người con trai. Nhà vua đặt người con trai nàng lên làm chuyển luân vương.

Sau khi có các phỏng đoán như vậy, vua tiến hành kiểm tra các phỏng đoán này, đặc biệt là việc cô đã có gia đình hay chưa. Các suy đoán cần phải được kiểm nghiệm bằng thực tế. Sau khi đã kiểm tra tất cả, vua cưới nàng làm vợ.

Bồ- tát khi nghe câu chuyện về sự may mắn của nàng, dùng cơ hội này thưa với nhà vua: Phàm việc gì cần phải làm cho được tốt đẹp, sao lại không cho học tập. Sự việc này ,do nữ nhân này có công đức lớn khi giải toả sự bức bách của thân, vẫn biết tránh các lỗi lầm và nguy hại của lỗi lầm, biết dùng phương tiện che đậy, khiến nhà vui đẹp lòng và ban cho nàng phước lợi như vậy!.

Nhà vua khi cưới hoàng hậu, chỉ mới có nhận xét về đặc tính cẩn thận của nàng ở chỗ riêng tư. Bồ- tát- ở đây, trong văn cảnh của Jàtaka, chính là để chỉ một tiền thân của Đức Phật Thích Ca- không dè bỉu, không hạ thấp sự may mắn của cô gái nhà quê. Không cho rằng cô là…mèo mù vớ cá rán. Ngài tuỳ hỷ công đức, vui khi thấy người khác làm điều lành. Ngài vui khi thấy được công đức của cô gái và vui theo niềm vui của cô gái. Đây chính là con đường vương giả trong việc tích luỹ công đức. Chia sẻ tài sản, cúng dường người có đức…đều đem lại công đức. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là : làm sao để có công đức nhiều nhất mà cố gắng ít nhất? Phật học đã chỉ ra một phương pháp… chẳng cần làm gì cả mà vẫn có công đức. Đó chính là tuỳ hỷ công đức. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng viết: mỗi ngày tôi chọn một niềm vui. Nếu tuỳ hỷ công đức, mỗi ngày bạn sẽ không phải chỉ có một mà có vô số niềm vui vì trong ngày, chắc chắn bạn sẽ gặp niềm vui của rất nhiều người. Có truyền thống Phật giáo còn định lượng hẳn hoi: nếu vui theo niềm vui của người có sự tự điều chỉnh cao hơn mình thì mình sẽ được một nửa công đức đó. Nếu vui theo niềm vui của người có sự tự điều chỉnh kém hơn mình thì mình sẽ có công đức… gấp đôi người đó. Bồ -tát nhân câu chuyện của hoàng hậu, nâng nó lên thành một bài học phổ quát hơn để giúp ích cho nhiều người hơn. Theo ngài, mọi việc, dù ở nơi riêng tư, cũng cần phải làm cho tốt đẹp.

Nói xong, để tán thán mọi việc cần phải làm cho được tốt đẹp, Bồ- tát nói lên bài kệ:

Hãy học điều cần học
Dẫu có kẻ cứng đầu
Kẻ quê khéo tiểu tiện
Làm đẹp lòng nhà vua.

Nguồn:Văn hóa Phật giáo
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/12/2010(Xem: 24560)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
10/12/2010(Xem: 9462)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 11134)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 3620)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 5369)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 3249)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 10666)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 3734)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 15164)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3501)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]