Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những ngày lang thang

28/10/201004:30(Xem: 2594)
Những ngày lang thang




saigon_map
NHỮNG NGÀY LANG THANG



● Nguyên Hạnh HTD

Viết để nhớ ngày 30 tháng 4 đen.

 

 

D

ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về.

Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em học trò mới xin lỗi là đã để tôi chờ lâu quá vì em không đủ can đảm ra báo hung tin.  Chuyến tàu đã bị công an rượt đuổi khi ra đến cửa biển và đã bị bắt! Cổ họng tôi khô đắng, mắt mở trừng trừng, hai thầy trò thất thểu ra về, không ai nói với ai lấy một lời.

Tôi tưởng mình không còn nước mắt để khóc, vậy mà trên đường về tôi đã khóc như mưa như gió; cả hai đều khóc vì người cháu của em học trò cũng cùng đi với con tôi trong chuyến này. Đôm hôm đó, ôm chiếc gối vào lòng tôi đã ngồi dựa vào tường suốt đêm, chưa bao giờ tôi cảm thấy bơ vơ đến tận cùng như vậy; nhà chỉ còn 3 mẹ con mà cháu út lại còn quá nhỏ. Qua cơn đau, dần dần tôi lấy lại can đảm cho chính mình phải cắn răng mà chịu để vượt qua mọi khó khăn trước mắt, bây giờ chỉ còn tôi là cột trụ chính của gia đình, tôi mà gục ngã thì ai sẽ dang tay cứu vớt chúng tôi đây?

Thế là 4 giờ sáng hôm sau, tôi cương quyết tìm đường đi thăm con vì hôm ấy là sinh nhật thứ 12 của đứa con gái. Vội vả làm một ít thức ăn để lại nhà cho con, tội nhất là đứa út mới 4 tuổi, mỗi lần đi thăm nuôi phải gởi nhờ nhà hàng xóm, còn quà của con gái tôi là một giỏ bánh kẹo. Đi suốt một ngày trời không ăn uống, không nghỉ ngơi, đến gần chiều vẫn chưa tìm ra chỗ giam. Dọc đường cứ dò hỏi những người lơ xe đò, họ chỉ đâu tôi đi đó, cuối cùng mới tìm ra được trại giam ở giữa chốn đồng không mông quạnh, bốn bề lồng lộng gió. Nôn nóng đi tìm thăm con cho được nhưng khi đến nơi rồi mới bắt đầu run, thế nào họ cũng sẽ đặt câu hỏi vì sao tôi biết nơi này mà đến? Sau khi tìm cách đối phó, năn nỉ mãi ông trưởng trại mới chịu cho tôi được gặp con vì chưa đến ngày thăm nuôi.

Tôi hồi hộp chờ đợi, nhìn qua khung cửa sổ sau lưng ông ta, trên con đường đất đằng xa tít dưới nắng chiều thoi thóp, hai anh em lê từng bước một. Trời ơi! đứa con gái xác xơ hốc hác, 2 mắt bị nhậm đỏ, con trai tôi thì tiều tụy thảm thương, tôi phải cắn chặt răng lại để nước mắt khỏi trào ra. Tôi chỉ trao vội vàng giỏ bánh kẹo, một ít thuốc men còn tiền thì họ giữ lại. Thất thểu ra về, lòng tôi tan nát, khao khát muốn ôm các con vào lòng dù chỉ trong phút chốc mà đành chịu! Mới mấy hôm mà các con tôi sa sút mau quá, con đường trước mặt tôi còn lắm chông gai, nặng nề vô kể, liệu đôi chân tôi có đứng vững được hay không?

Sau một tháng bị giam giữ, con gái tôi được thả về trước. Mới một tháng không thấy ánh đèn thị thành vậy mà khi về đến xa cảng thấy cả một thành phố rực sáng, con tôi đã òa ra khóc nức nở! Thôi thì dù sao đi nữa tôi cũng nhẹ bớt được gánh nặng đè lên đôi vai, ngày đi buôn chợ trời, tối về phải kèm cho con học để theo kịp bài vở ở trường.

Một thời gian sau, họ đưa con trai tôi về giam ở gần Sa Đéc, tôi rất mừng vì đường đi thăm nuôi sẽ đỡ vất vả hơn. Mỗi lần đi thăm quá sức cực khổ, chen chúc giành giựt mà cũng chỉ mua được giá vé chợ đen dù rằng đã đi lúc 3 giờ sáng; nhiều lúc chỉ bám vào hông xe mà đứng, hai vai mang đầy 2 giỏ thức ăn nặng trĩu, sinh mạng rẻ như bèo! Lần này đi thăm nuôi, cứ yên chí đi và về chỉ trong một ngày nên tôi đã không dự trữ thức ăn cho các con ở nhà. Không ngờ khi đến nơi chỉ đọc được một tờ thông báo là đã đưa tù nhân về một trại giam khác ở vùng Đồng Tháp Mười sau khi đã kêu án 3 năm tù. Tôi dọ hỏi dân chúng ở gần đó, họ cho hay cứ hai người còng chung tay lại và đã đưa đi hồi 2 giờ sáng. Tôi nhất quyết đi tìm vì nếu phải đợi đến nửa tháng sau mới được đi thăm nuôi lại, con tôi sẽ lấy gì mà ăn? Vậy là tiếp tục cuộc hành trình, lần mò qua đò qua sông, họ chỉ cho tôi hãy tìm cách về đến Cao Lãnh rồi sau đó sẽ có „tắc ráng“ là phương tiện di chuyển duy nhất để vào trong trại giam. Lặn lội ngược xuôi khi đến nơi thì đã hết đò vì mỗi ngày chỉ có một chuyến thôi. Cho đến bây giờ, mỗi lần nghe tiếng lá cây rạt rào trong gió là tôi lại nhớ đến bến đò hiu hắt năm xưa với hình ảnh một ông già mù ngồi kéo cây đàn cò não nuột dưới gốc cây bàng xơ xác lá!

Dân hàng quán ở hai bên cũng xúc động cho hoàn cảnh của tôi nên đã chỉ dẫn cho tôi đến trình diện phường Công an gần đó rồi nhờ họ giới thiệu phòng trọ cho mà ngủ qua đêm chứ không được ở khách sạn hạng sang vì loại này chỉ dành cho cán bộ cao cấp mà thôi. Gọi là phòng trọ, nhưng trời ơi! Khi đến nơi mới thấy khiếp đảm, xây xẩm cả mặt mày! Họ chỉ cho tôi một căn phòng ở tầng trệt nhỏ xíu, dơ dáy không thể tưởng được, mùng thì cũ rích với một cái giường tre ọp ẹp. Tôi không dám đặt lưng xuống, chỉ lấy cái áo mưa lót mà ngồi; đến khi buông mùng xuống tôi muốn chết khiếp luôn, rệp bu đen cả cái mùng! Thế là tôi đành ngồi bó gối suốt đêm, không dám nhúc nhích vì sợ đụng cái mùng là rệp bu tới, trong khi đó chuột chạy rần rần, chúng cứ muốn chui vào lục lọi các giỏ thức ăn. Thật chưa bao giờ tôi mong cho trời mau sáng từng giây từng phút như cái đêm hãi hùng đó.

„Tắc ráng“ chỉ là một chiếc đò rất hẹp, lót ngang bằng những thanh gỗ nhỏ, phải ngồi co chân lại mới đủ chỗ. Đã vậy những khi chạy trong các kinh lạch nhỏ, gặp lúc nước rút xuống lại càng khổ thân nữa, hành khách phải tuột xuống lội sình từng bước, còn con đò phải neo lại chờ con nước lên mới tiếp tục chạy được. Đò thì nhỏ nhưng lại chuyên chở nhiều, có đoạn phải ra sông lớn thật nguy hiểm, do đó cứ mỗi chuyến đi tôi phải dặn dò đứa con trai còn ở lại nhà, lỡ tôi đi luôn không về thì sao? Ngồi bó gối hơn nửa ngày trời, tứ chi ê ẩm quá chừng, con đường vào Đồng Tháp Mười quá gian truân, vậy mà chỉ gặp thăm con được nửa giờ thôi. Thăm xong rồi mới thấy lo, đò đâu nữa mà trở về, đường bộ không có, xin ngủ lại nhà khách vãng lai trong trại họ lại không cho làm con tôi chân đi không đành, ánh mắt nhìn tôi lo lắng xót xa đến não lòng! Tôi lại lang thang thất tha thất thểu, chưa biết qua đêm ở đâu khi chiều tối đang xuống dần! Đến khi đi ngang qua một chòi tranh rách nát nằm chơ vơ giữa cánh đồng, chỉ có một bà cụ già ngồi trên một cái chõng tre không mùng mền gì cả, tôi đánh liều xin vào tá túc qua đêm. Khi hỏi mua lại một ít gạo để nấu cơm tối, than ôi! nhà chỉ có một lu muối hột mà thôi; thì ra ngày nào người con gái ra đồng kiếm được cá mới có gạo mà ăn, còn không thì đành nhịn đói. Tôi đã đi khắp xóm tìm mua một ít gạo hoặc nếp cũng được nhưng chỉ có toàn khoai sắn! Dân làng nghèo quá không làm sao tả hết được, từng chòi tranh xơ xát nằm hai bên con kinh nước đục ngầu nhưng đó là nguồn nước cần thiết của họ để sống.

Những tưởng sẽ nhịn đói qua đêm, may sao có một chuyến đò dọc bán hàng rong đi ngang qua, tôi mua được hai lít nếp và đậu, nấu một nồi xôi thật lớn cốt để dành lại cho bà cụ no được vài ngày. Trời càng về chiều quang cảnh càng thê lương ảm đạm, tiếng ếch nhái như than van nghe càng não nuột cả tâm can, lại thêm mỗi nhà chỉ thắp một ngọn đèn dầu leo lét trông như ánh ma trơi giữa đồng không mông quạnh. Chao ôi! đến thế kỷ 20 rồi mà ánh sáng văn minh chưa hề len lỏi về đây, cuộc sống của người dân quá tăm tối lầm than; thật tội cho kiếp người dân quê ở đây, họ quá nghèo rách bươm như tàu lá chuối tả tơi trong gió!

Đêm đến chỉ biết đập muỗi liên hồi, không ngủ được, tôi lại ra sau chòi tranh mà ngó vào trại giam, chỉ cách nhau một hàng rào kẽm gai mà mẹ con tôi phải xa nhau vạn dặm như thế này? Tôi đứng nơi này lòng nát tan từng mảnh, con tôi trong đó phải chịu đựng bao cực hình; biết bao nỗi buồn phiền cứ gậm nhấm tâm hồn tôi đến mỏi mòn.

Giã từ bà cụ ra về, tôi vội nhét vào tay Cụ một ít tiền còn lại mà nước mắt tôi cứ muốn ứa ra. Tôi quá xót xa cho hoàn cảnh nghiệt ngã của bà Cụ và cũng không biết đến bao giờ tôi mới trở lại nơi đây để nói thêm một lời cám ơn Cụ đã cho tôi tá túc dù chỉ một đêm thôi.

Bây giờ các con tôi đã đến bến bờ Tự Do nhưng „Những ngày lang thang“ vẫn là những hành trang quý giá để làm chất liệu thêm cho cuộc sống, có khổ đau mới nhận thức được chân giá trị của những ngày sung sướng. Tôi nghĩ chỉ những người ra đi sau năm 75 mới thấu hiểu ý nghĩa của 2 chữ Tự Do hơn là những người đi trước. Dù sao cũng xin cám ơn đời đã cho tôi những ngày vui lẫn ngày buồn nên tôi luôn luôn trân quý những nụ cười cũng như những giọt nước mắt khổ đau tận cùng. ◙

Ý kiến bạn đọc
12/04/201801:30
Khách
Đây là một hoàn cảnh bi thương , tan tác của gia đình cô giáo Nguyên Hạnh, trong hàng trăm ngàn gia đình người dân Miền Nam sau khi bị Miền Bắc Cọng Sản xâm lăng : chồng ở tù, con vượt biên bị bắt, người vợ, người đàn bà còn lại đơn độc chống chỏi với nghịch cảnh để tồn tại và cứu gia đình . Với ngòi bút sắc nét, cô giáo người Huế,yếu đuối, cô đơn, lưu lạc trong Nam vì chiến tranh, đã vẽ lại sống động bức tranh gia đình và đất nước tang thương những ngày tháng đó, những ngày tháng đất nước vừa bị nhuộm đỏ.
Những trang hồi ký đẫm đầy nước mắt uất hận này sẽ là những trang sử u buồn để lại cho hậu thế. Xám ơn Cô Nguyên Hạnh HTD.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/03/2024(Xem: 174)
Trên tay bạn,chiếc đồng hồ đeo tay đắt giá, hoặc người yêu, người thân quý tặng...bạn không thể không dùng nó. Có thể, bạn phải đeo mang nó suốt đời... Bạn muốn buông đi, hơi khó buông : Vì, e bạn đã tự coi thường bạn mình. Khi trao tặng bạn, sở hữu chủ đã hàm ý: Tôi yêu quý bạn trọn cả đời tôi.
27/03/2024(Xem: 803)
Chinh Phụ Ngâm, nguyên tác của danh sĩ Đặng Trần Côn, diễn nôm song thất lục bát của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm là một áng thơ tình kiệt tác của Việt Nam và thế giới. Tập thơ diễn tả nỗi thương nhớ chồng, người chinh phu nơi quan ải, và những đau khổ người khuê phụ thời chiến loạn phải chịu đựng trong sự sự bạo tàn của chiến tranh. Tiếp tục sự đóng góp cá nhân cho công trình bảo tồn và phổ biến văn hóa Việt mà tôi bắt đầu từ tập thơ nhạc song ngữ “A Garden of Vietnamese Lyrics & Verse”, gồm khoảng 150 bài thơ và nhạc của nhiều tác giả, tiền chiến và hiện đại, xuất bản năm 2019, cho đến tác phẩm song ngữ “The Tale of Kiều” được phổ biến năm 2023 qua ebook, sách in, trang mạng và youtube videos, rồi năm giáp thìn này, tôi vừa hoàn tất tập thơ song ngữ “Chinh Phụ Ngâm / Lament Song of a Soldier’s Wife”.
08/03/2024(Xem: 428)
Vào hồi 5h chiều ngày 6/3/2024, trên đỉnh núi Bàn Cờ ở bán đảo Sơn Trà (tp Đà Nẵng), tôi rất vui và hạnh phúc được tổ chức buổi thiền trà cho tỷ phú Bill Gates và bạn gái của ông, bà Paula Hurd. Hơn 20 năm làm trà và truyền bá văn hóa trà Việt Nam, tôi đã đi hầu khắp các tỉnh thành và nhiều nước trên thế giới, tổ chức hàng ngàn buổi thiền trà cho đủ các tầng lớp: các nhà chính trị, các doanh nhân, văn nghệ sĩ, trí thức, học sinh, sinh viên, các bậc tu hành… trong và ngoài nước. Nhưng đây là lần đầu tiên, tôi tổ chức buổi thiền trà cho vị khách là tỷ phú Mỹ và đây cũng là lần đầu tiên, không gian thưởng trà diễn ra trên một đỉnh núi tràn ngập mây bay, gió thổi, ráng chiều hoàng hôn và tiếng sóng biển rì rầm khi gần, khi xa. Đứng trên đỉnh núi Bàn Cờ có thể nhìn thấy biển xanh, cát trắng và toàn cảnh thành phố Đà Nẵng. Cảnh sắc nơi đây vô cùng đẹp đẽ, thơ mộng và yên tĩnh như chốn bồng lai tiên cảnh. Buổi thiền trà trở nên đặc biệt, một phần vì thế.
08/03/2024(Xem: 490)
Nhân Ngày Quốc tế Phụ nữ, (8/3/2024) một ngày quan trọng để tôn vinh những đóng góp to lớn và đa dạng của phụ nữ đối với xã hội, mỗi năm Liên Hợp Quốc thường chọn một chủ đề nhằm tập trung vào những vấn đề cụ thể và thúc đẩy sự tiến bộ đối với quyền của phụ nữ và bình đẳng giới, Thường chủ đề hàng năm thường nhấn mạnh việc chấm dứt bạo lực đối với phụ nữ, thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ trong khoa học và công nghệ, quyền kinh tế, hoặc bình đẳng giới trong lãnh đạo và quyết định.
28/02/2024(Xem: 714)
Trong cuộc sống ngày nay, giữa rất nhiều những bộn bề lo âu, giữa thật giả lẫn lộn, con người dường như mất đi rất nhiều niềm tin, mất đi nhiều những giây phút để tìm cho mình một sự bình lặng trong cuộc sống, bởi suy cho cùng, sự cộng hưởng giữa nguyên nhân chủ quan và khách quan, đó là “môi trường áp lực và sự phức tạp của con người” khi hợp lại, nó sẽ trở thành lý do để người ta dễ dàng hoài nghi và buông ra những lời cay độc, nuôi dưỡng tâm tính muốn triệt hạ lẫn nhau nếu có ai đó gán chân mình. Người ta dễ dàng hằn học đấu tố nhau từ ngày này qua ngày khác và xem đó như một phần sự sống, dường như không gian tĩnh lặng và thấu cảm trở nên chật hẹp trong ánh mắt người đời.
28/02/2024(Xem: 384)
Lâu lắm rồi hai tháng nay con không được thấy hình ảnh Mẹ Tâm Thái, hôm nay thầy Nguyên Tạng gửi hình Mẹ chuẩn bị đón Xuân Tết quê nhà, thấy Mẹ tươi vui con biết rằng Mẹ vẫn khỏe, vẫn an lạc từng giờ, từng phút, con mừng lắm. Nhìn Mẹ Tâm Thái treo những chiếc lồng đèn đỏ trên cành mai vàng đã điểm những nụ hoa vừa hé nhụy, con biết rằng đó là do bàn tay Mẹ đã săn sóc, đã tỉa cành, chăm bón cho hoa nở đúng ngày đầu của một năm mới, con biết đó là cách Mẹ chúc phúc cho mọi người, những chiếc lồng đèn đỏ xen lẫn màu vàng của hoa Mai hòa quyện vào nhau làm cho thêm phần rực rỡ. Rực rỡ như tâm của các bà Mẹ Việt Nam chứa đầy sự thương yêu, chăm sóc cho đàn con cháu.
24/02/2024(Xem: 544)
Bạn ơi, Do sự tiến bộ vượt bực của y khoa. Ngành phẫu thuật như một bà tiên huyền diệu. Biến người xấu thành người đẹp dễ dàng. Mắt một mí biến thành hai mí. Da ngăm ngăm biến thành da trắng nõn nà. Lông mày chổi xể biến thành lông mày cong vút.
22/02/2024(Xem: 517)
Tôi lấy tựa đề này vì tôi thích ý tưởng của Nam Lê khi anh đặt tên cho chương đầu tiên trong quyển sách của anh có tên là ‘The Boat’ (Chiếc Thuyền), một quyển sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và đoạt được nhiều giải thưởng văn học ở Anh, ở Úc và ở Mỹ. Chương sách đầu tiên đó được tác giả đặt một cái tên khá dài: ‘Love and Honor and Pity and Pride and Compassion and Sacrifice’ (Tình Yêu và Danh Dự và Thương Hại và Kiêu Hãnh và Tình Thương và Hy Sinh).
21/02/2024(Xem: 457)
Cuộc đời của mỗi người ai cũng có cho riêng mình một vùng trời ký ức, chỉ là một đời sống bình dị thôi, nhưng lưu lại và đọng sâu trong trí nhớ. Giữa cuộc sống bộn bề ở nơi xứ người, có thể khiến người ta quên đi rất nhiều thứ. Nhưng chắc chắn rằng, tận sâu trong một góc của trái tim, luôn có hình ảnh quê nhà và hình bóng của Mẹ của cha. Nhớ những con đường dẫn vào nhà, trở về với những điều thân thuộc, về cùng với Mẹ bữa cơm chiều .....Và ký ức của tuổi thơ trở về .
07/02/2024(Xem: 434)
Ngược dòng thời gian năm 1984, tôi viết quyển sách đầu tiên ‘Chìa Khóa cho người Tỵ Nạn’ dành cho những người tỵ nạn Đông Nam Á, giúp họ giữ vững niềm tin và hiểu biết tường tận hơn về tôn giáo của mình để đối đầu với các hành động có hậu ý của các nhà truyền giáo Ki tô muốn họ cải đạo. Sau đó vài năm, tôi viết thêm vài mục với lời tựa mới là ‘Thực Tiễn’. Bây giờ sau 10 năm, quyển sách lại được ‘tái sanh’ lần thứ ba với tựa mới ‘Kẻ Sống Lang Thang trên Bờ Biển’. Tôi đã thay tên mới, tên mà tôi cảm thấy thích hợp hơn cả. Từ trước đến nay, tôi luôn thích đi bộ dọc theo bờ biển nhìn sóng biển đưa vào đủ thứ thập vật: vỏ sò, đá cuội, gỗ mục, v.v.. . Đây là một lối nhìn khác về cuộc sống, mở ra cho thấy những điều không ngờ tới, rút ra được những bài học, tự hỏi ta có thể biến thành hữu dụng, những gì mà người khác cho là vô dụng
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567