Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Có Một Thời ( 40 năm về trước )

30/03/201506:32(Xem: 3765)
Có Một Thời ( 40 năm về trước )

Nguyen Hanh Hoang Thi Doan

 

                                   Có một thời dâu bể

                                   Nước mắt là huyết lệ

                                   Nụ cười chỉ tái tê

                                   Đời chìm vào cơn mê...

 

      Tôi muốn nói đến cái mốc thời gian cách đây 40 năm chính là tháng tư đen , nhưng lại là dấu ấn thắm màu máu đỏ đóng trên trang sử Việt Nam cũng là lằn ranh phân định  hai đoạn đời trước, sau năm 75 của người dân miền Nam nói chung và đời nhà giáo của tôi nói riêng, thật hoàn toàn tương phản!

      Đoạn đời trước đó, với ngôi trường phượng đỏ, tường hồng, còn ghi khắc bao kỷ niệm dễ thương mà tôi đã từng chia sẻ với học trò, với bạn bè. Ngược lại, đoạn đường sau này, dù ngắn ngủi hơn nhưng đã để lại cho đời mình những nỗi bi hài thâm thúy vô cùng!

      Xin chia sẻ với những ai chưa từng sống với "họ", những người đã may mắn ra đi sớm nhất và chưa hề biết Cộng sản là gì?!

 

                        Bức thư viết bằng máu!

 

      Người Huế hay nói: " Láo thiên láo địa, láo từ chợ Sịa láo vô ". Thật oan cho người Sịa. Tôi đã ở lại 14 năm sau 75,

nếu hỏi tôi ai láo nhất đời, tôi xin tặng ngay cho họ " Giải Nobel nói láo ". Láo từ trên xuống dưới, láo từ trong ra ngoài, láo từ  trước đến sau, láo có hệ thống, có chỉ huy, có áp lực.

       Khi xảy ra chiến cuộc với Trung Quốc năm 1978, con tôi đang học ở trường Đại học Bách khoa- Phú Thọ. Bọn đoàn viên mà mọi người gọi là bọn " ba mươi " làm nhiều điều xu phụ, nịnh bợ để giành quyền lợi vật chất, để phấn đấu vào đảng... Nhưng đến khi phải hy sinh như việc phải ra chiến trường chẳng hạn thì họ tìm cách đẩy bọn con em "nguỵ" đi trước. Khi chiến cuộc bắt đầu hơi căng, chúng bày trò " Cắt tay lấy máu viết lá huyết thư " đưa lên Thành uỷ xin tình nguyện nghỉ học để lên đường đi đánh Trung Quốc. Con tôi không biết gì cả, tự nhiên sáng dậy vào trường thì đã thấy tên mình đứng ngon lành trên bức thư viết bằng máu đòi bỏ học để lên đường cứu nước!!! Nhìn lại ngón tay mình đâu có đứt. Máu chó hay mực đỏ ? Hỏi quanh mấy thằng bạn, có nhiều đứa cũng con "nguỵ", cũng không đoàn viên, cũng không tình nguyện, cũng không " đứt tay " mà cũng có tên trên bức huyết thư đó!

       Bức thư dâng lên Khoa trưởng, Khoa trưởng dâng lên Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân, Chủ tịch chấp thuận. Thư in lên báo, báo chí ca cải lương thêm, định ngày tháng rõ ràng trong hai tuần nữa là làm lễ xuất quân. Phát áo quần hành trang cho từng đứa và ông Chủ tịch sẽ đến dự lễ. Nhà trường ra thông báo ngày trình diện, các " sinh viên tình nguyện " phải mặc đồ nhà binh sẵn, mang ba lô để làm lễ xong là lên đường luôn. Nghe có vẻ là quá dứt khoát, có vẻ là lệnh lạc đã đâu vào đấy rồi. Tuy nhiên ở cuối thông báo có một câu rất mâu thuẫn khôi hài:

 

                   " Ai trốn trình diện sẽ bị đuổi học "

 

 

      À ha! Những đứa đã hăng hái cắt tay mình lấy máu để viết thư đòi nghỉ học để cứu nước, sao lại còn " trốn " nhỉ? Cái ngòi bút của họ sao mà dễ uốn cong đến thế! Cuối cùng cũng lòi đuôi chuột!!!

      Tất nhiên con mình với những thằng con " nguỵ " khác, bèn tẩu vi thượng sách. Không trình diện! Đành phải ra đi thôi, không còn con đường nào khác!

 

                          Mái tóc của Hiền

 

      Thời đó, ở trong nghề nhà giáo, tưởng đã núp lén được nhiều, yên thân hơn một chút, hóa ra họ gán cho các Cô mấy chữ " Cái máy cái " để sản xuất ra những cái " máy con "; ấy là các Thầy Cô được dạy nói dốc để đẻ ra những cái máy nói dốc khác, nhất là giáo viên Văn và Sử. Dạy lớp 9, phải ca tụng tác phẩm " Hòn Đất "của Anh Đức trong đó người mẹ là " Bà Cả Xợi " đã phĩnh dỗ được con trai theo "nguỵ" về để cho họ phục kích giết chết. Dạy lớp 11, phải đặt chuyện quan lại phong kiến áp bức nàng Kiều, phải ca tụng Từ Hải là cách mạng v.v... Thiệt là vui !

      Cô bạn dạy Văn kể lại: " Mình nói láo không trôi chảy nên mặt mày dễ bị lộ, cho nên đã có lần một thằng đoàn viên nó báo cáo là khi cô giảng bài, mỗi lần nói đến mấy chữ " Bọn quan lại mục ruỗng " là thấy cô cười méo méo, nửa cái miệng xích qua bên trái. "

      Rồi Cô kể tiếp:

    " Thường thường mình hay khó chịu với những mái tóc dài rũ xuống hai bên má, lòa xòa che cả mặt. Khi cúi viết bài, có em bỏ mặc cho tóc rũ phía trước che hết mặt; có em thì chống cùi chõ lên bàn, đưa một tay chống màng tang, vén bớt một bên tóc, chỉ còn một tay ghi chép một cách chễnh mãng.

       Một hôm, có một em ngồi ở đầu bàn, tóc xõa cả hai bên má, mình vừa giảng vừa bước xuống gần, nói nhỏ " Buộc tóc lên ", không ngờ cô bé cả gan ngước mắt lên nói lại với mình, cũng rất nhỏ: " Thưa Cô, mái tóc của em để xõa hay vén lên là có mục đích. Dạ, em vén lên những giờ khác, còn em xõa để che tai là các giờ Chính trị, Sử và Văn... Than ôi! Mình lại đang dạy Văn, đành cứng họng làm thinh, xấu hổ đến đắng cả cổ, không nuốt nổi nước bọt để mà giảng tiếp. Thế là mình đã quá dại, quá lộ liễu. Dạy Văn là phải nhai lại những giáo án soạn sẵn của họ; giảng Kiều mà kiếm cách chửi bọn phong kiến mục ruỗng áp bức nhân dân, thế cũng còn hơi dễ chứ giảng Kiều mà phải ngoẹo sao cho ra cái " Liên hệ thực tế, liên hệ tư tưởng là chống Mỹ cứu nước " thì thật là khó. Khó, nhưng rồi họ cũng dạy cho để nói được. Nói được, nhưng chắc cái miệng cười méo qua một bên như từng bị báo cáo có ẩn chứa một tình ý gì đó mà Hiền tinh ý nhận ra, mới dám phát biểu một câu nguy hiểm như vậy đó! "

 

                Tránh mãi cũng không được.

 

       Mỗi buổi sáng, sau khi ăn một củ khoai, xách chiếc xe đạp mini cũ mèm mà hấp tấp đạp tới trường.

       Hôm ấy ngày khai trường nhưng không phải là " Một sớm mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi " đâu. Tôi đạp hộc xì dầu vừa gần đến trường thì đụng phải một cậu bé cũng đi xe đạp. Đang đi sát trước bên trái tôi, nó quẹo phải, tôi ủi vào, cả hai cùng ngã, may không ai bị gì hết. Thấy cái mặt sốt rét vàng bủng với áo quần màu cứt ngựa, biết ngay nó chính là con nhà " ngoài nớ " vô, tôi liền sừng sộ:

    - Đi chi lạ rứa, đồ khỉ !

      Nhìn một cái tăm bánh xe trước của tôi bị quẹo, nó lúng túng sợ sệt:

    - Cháu xin lỗi, cháu có đưa tay ra hiệu mà cô không tránh.

    - Tránh, tránh cái con khỉ, tránh ba mươi năm ni rồi mà không được, chừ phải đụng đây.

      Tự nhiên, bao nhiêu căm phẫn tôi trút hết lên màu áo cứt ngựa mà tôi đã vốn ghét sẵn:

    - Có biết đây là Saigòn không? Xe đạp là hạng bét rồi, còn ra hiệu cho ai tránh nữa- tôi trề môi kéo dài ra hai chữ " ra hiệu "- về trong rừng của mày mà ra hiệu cho khỉ nó tránh.

     Chưa đủ, tôi còn tặng cho nó một cái nguýt có đuôi rồi mới lật đật vào trường.

     Ai ngờ, Trời phạt! Một sự trùng hợp không thể tưởng tượng được! Ấy là giờ đầu, tôi điệu bộ bước vào lớp 10 C2 với cái vẻ nghiêm trang nhưng " hiền hòa, phúc hậu " của một nhà giáo đầy vẻ bao dung, nở nụ cười đầu năm để chào các em học sinh mới. Cả lớp đứng dậy, thì... ôi thôi, cái thằng bé kia đang đứng ngay ở bàn đầu.

     Trời! " oác " ơi là " oác ", thiệt không biết cách nào mà độn thổ cho rồi. Không biết lúc ấy cái mặt tôi ngượng đến cỡ nào, còn em học sinh kia thì cúi gầm mặt xuống.

    Từ đó, việc dạy lớp 10 C2 đối với tôi là cả một hình phạt tâm lý vô cùng nặng nề, kéo dài trong suốt cả niên học. Không bao giờ tôi quên được thái độ dữ dằn, làm đày làm láo không nhà giáo tí nào của tôi khi ăn hiếp đứa trẻ. Lắm lúc đang giảng bài mà thấy mặt nó, tôi khựng lại, thật ngượng cho cái lớp áo nhà giáo của mình. Cũng còn một chút may không phải là lớp Chủ nhiệm. Nếu không, với cái cách hướng dẫn gần gũi, thân tình của cô Chủ nhiệm, tôi biết ăn làm sao, nói làm sao! Trời phạt tôi cú này thiệt quá nặng!

 

                        Chỉ vì không có Prozac.

         Năm ấy, tôi làm Chủ nhiệm lớp 10 C3. Sau 75, trai gái học chung, có em Nguyễn văn Quang; em không thích học và cũng không giao tiếp với bạn bè.Tôi Chủ nhiệm nên theo sát để nâng đỡ. Thấy tập vỡ của em ghi chép loạn xà ngầu và thỉnh thoảng giữa bài lại chen vào câu " VC về rồi, đời không đáng sống! ". Ngồi trong lớp em không nghe giảng, thường thu mình lại. Tôi nhẫn nại khuyên bảo, hình như cũng có đôi chút lọt lỗ tai, nhưng rồi đâu cũng hoàn đấy.

     Tôi đến nhà em, tìm hiểu. Nghe cha mẹ bảo là ở nhà em chỉ cuộn mình mà ngủ, thậm chí cũng không muốn ra ăn, không tiếp xúc với ai. Tôi khuyên giải, lại chỉ một câu trả lời: " VC về rồi, đời không đáng sống! ". Tôi khuyên gia đình đưa em đi khám bệnh tâm trí. Kết quả là em bị bệnh trầm uất. Thuốc Prozac chữa được bệnh này nhưng kiếm đâu ra? Nhiều dược phòng tôi quen đã phải vứt thuốc xuống sông, xuống giếng để phi tang cái gọi là tư sản! Mổ xẻ nhiễm trùng còn chịu chết vì không có thuốc trụ sinh, huống chi những thứ thuốc xa vời đó. Tôi có dặn dò là gia đình lưu ý cất giữ những đồ vật nguy hiểm, đề phòng em làm bậy.

      Hè đến, không còn gặp nhau.

      Một hôm, rằm tháng bảy, tôi đang cúi đầu lễ bái tại một ngôi chùa, ngẩng đầu lên tôi bỗng lạnh cả xương sống. Một cái hũ mới toanh với tấm hình và tên: Nguyễn Văn Quang, đặt ở bàn thờ!

     Trời ơi! Sao vậy!? Đã dặn rồi mà! Tôi đạp xe một mạch đến nhà em ở Hàng Xanh. Cớ sự cũng là vậy: Một hôm cả nhà đi vắng, dao rựa đã cất hết nhưng về nhà thì hỡi ơi...        „như thế! ". Một mảnh drap xé dọc làm hai đã kết liễu một cuộc đời !!! 

 

 

 

                       Vẫn còn tình thầy trò

 

      Nói vậy chứ không phải tất cả đều là chuyện buồn! Tôi

vẫn tìm được những tấm lòng và đó là nguồn an ủi của lớp người ở lại như tôi, 14 năm đằng đẵng!

      Có đứa báo cáo mình thì cũng có những đứa méc lại với mình! Có những nam sinh đã hết lòng giúp tôi trong những giờ lao động, những lúc mít tinh.

     Kể không hết những nỗi buồn thấm thía trong những cái gọi là lao động XHCN. Giáo viên phải giữ xe đạp của học sinh để lấy tiền cho trường bằng cách bán vé; rồi giờ tan học phải chạy ra trước để chận xét vé xe. Giáo viên phải bán cà rem, bánh ngọt cho học sinh trong giờ ra chơi, phải chạy ra trước học sinh để kịp bán và phải hấp tấp vào lớp sau học sinh vì còn nạp tiền. Phải xỏ dép nhựa gia công, làm gia công cho các tổ hợp mành trúc. Tiền kiếm được đều nạp cho ban Giám hiệu, cũng không hề nghe báo cáo là họ dùng vào việc gì. Những việc đó làm cho mình nhiều khi nhìn lại mình, không biết mình có còn là " cô giáo " hay không nữa! Nhưng cũng chính trong những giờ lao động đó mà mình tìm thấy được là mình còn có học trò. Các em nam sinh luôn luôn giúp đỡ tôi tận tình trong các công việc nặng. Chúng nó gánh vác hết và bao che khi thấy tôi tinh thần sa sút, chán nản.

     Còn nhớ năm tôi làm Chủ nhiệm cấp lớp 11, có em Trần Quý là một tay anh chị chợ Bà Chiểu. Khi tôi được chia Chủ nhiệm lớp ấy, các bạn đồng nghiệp đều ái ngại cho tôi, nhưng rồi tôi đã phong cho Quý làm Trưởng ban Trật tự kiêm luôn Trưởng ban Lao động. Ấy là tôi khỏe re suốt năm! Những buổi mít tinh, luôn luôn có điểm danh, thành phố kêu có mặt 8 giờ sáng, xuống đến quận còn lại 7giờ, xuống đến trường còn lại 6 giờ rồi Công đoàn trường muốn lấy điểm, lại trừ hao thành ra bắt có mặt 5 giờ sáng! Luôn

luôn Quý dặn dò tôi "Cô cứ ngủ, độ 8,9 giờ Cô xẹt ra một chút cho có mặt để ký giấy điểm danh, còn mọi việc để em ". Quý làm sao không biết, mà mít tinh hoài, tôi chẳng bao giờ mất ngủ mà lớp tôi vẫn đứng trung bình. Còn lao động mành trúc, Quý cũng để cho tôi thỉnh thoảng vắng mặt, nhưng không hiểu sao lớp tôi cũng có vài lần đứng nhất?

     Trong các thứ lao động, tôi chọn việc trồng khoai. Nhà của Quý ở gần bờ sông, còn chút đất chưa trồng trọt, tôi đem lớp Chủ nhiệm về đó trồng khoai. Lao động ở đó để buổi trưa còn được lên nhà Quý nghỉ mát và uống nước, còn tôi cũng được " mát trời tranh thủ ngủ một giấc ". Thì ra thầy trò chi cũng lòi cái bản chất tiểu tư sản ra cả. Chính trong những ngày lao động với nhau đó mà tình thầy trò nẩy nở, nẩy nở luôn cả một chút gì sâu kín bên trong, hình như là tình cùng đứng chung một giới tuyến!

      Kết quả của ba tháng lao động: Chuột cống đang moi hết khoai củ. Ngày " thu hoạch " chỉ còn những dây khoai già vàng úa! Thầy trò chúng tôi " Liên hoan kết thúc thắng lợi của 3 tháng lao động XHCN " bên bờ sông thơ mộng bằng một bữa cơm độn bo bo với rau khoai lang già luộc chấm xì dầu chanh tỏi. Buổi ăn liên hoan đó chưa bao giờ ngon như vậy. Về trường cứ sự thật mà " báo cáo thành tích " với Công đoàn. Kết quả lớp tôi đứng chót !

     Vậy mà vẫn vui vì những kỷ niệm này làm cho thầy trò chúng tôi khắng khít thương yêu nhau hơn.

     Thì ra những ngày sống dưới sự đày đọa từ thể chất đến tinh thần của một thời ngày ấy, vẫn còn có những gì còn lại, những gì mang theo thật ấm lòng và mãi mãi là những nét đẹp dễ thương muôn đời, nhớ đến vẫn còn cảm thấy bâng khuâng cả " tấc lòng " !

      Bao nhiêu năm qua rồi! Dù người bên đây hay người bên đó, dù bát cơm trắng ngày nay thay bát cơm độn ngày nào, mong rằng chúng ta đừng bao giờ quên chúng ta đã từng có những tháng ngày dở sống, dở chết; chúng ta đã từng có một thời - Nước mắt là huyết lệ !!!

 

                                                                Mùa 30 tháng 4 

                                                                   1975-  2015

                                               Nguyên Hạnh HTD

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ý kiến bạn đọc
18/04/201518:16
Khách
Chị Nguyên Hạnh viết bài này hay quá, nhờ ở sự trung thực thấy sao viết vậy từ trải nghiệm của cuộc đời.Nhật Hưng xin đề nghị " Giải Nobel nói thật" cho chị.
18/04/201518:08
Khách
Chị Nguyên Hạnh Hoàng thị Doãn viết bài này hay quá, nhờ ở sự trung thực thấy sao viết vậy. Nhật Hưng xin đề nghị cấp "giải Nobel nói thật " cho chị.
31/03/201510:22
Khách
Một thời để quên và một thời để nhớ đến nổi uất hận, sự dối trá của độc tài đặt trên cổ toàn dân Việt đã 40 năm qua. Tháng tư này sẽ là cột mốc của sự thật ngôn luận để cho con cháu chúng ta được quyền hãnh diện làm người Việt Nam chân chính.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/12/2010(Xem: 24672)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
10/12/2010(Xem: 9499)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 11209)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 3645)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 5431)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 3284)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 10873)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 3773)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 15255)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3549)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]