Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bùi Giáng, nhà thơ vang vọng mãi

02/04/201320:44(Xem: 9602)
Bùi Giáng, nhà thơ vang vọng mãi

 

81 8a buigiang
BÙI GIÁNG
Nhà thơ vang vọng mãi

Đinh Hồi Tưởng

---o0o---

 


Bùi Giáng là một nhà thơ thiên tài xử dụng ngôn ngữ sức huyền ảo thượng thừa trong vườn thi ca hiện đại Việt Nam.


Tôi được nghe nhiều người truyền tụng ngợi ca Trung niên thi sĩ từ lâu lắm rồi, dần dần tôi làm quen tìm đọc thơ của bác, lúc còn làm chú tiểu ở chùa Tường Vân-Huế. Cuối năm 1978 có dịp sắp xếp lại tủ sách của thầy bổn sư, bỗng dưng tôi bắt gặp được tập thơ Mưa Nguồn của Bùi Giáng, liền giở ra xem, đọc đi đọc lại chỉ cảm nhận thôi, cho dù không hiểu, không bình giải nỗi một chữ một câu trong thơ, tôi ngưỡng mộ bác dù chưa một lần gặp gỡ. Thơ của bác tươi mát tràn ngập tâm hồn tôi từ dạo ấy, cho đến hôm nay (2002) đúng 24 năm trời tôi vẫn trân trọng giữ gìn tập thơ như một vật gia bảo quý hiếm!


Thời gian cứ vùn vụt trôi, tôi lớn lên ôm ấp một hoài bão vào đất Saigon có điều kiện thuận duyên tiếp tục học hành đến nơi đến chốn, lúc đó đầu năm 1981, lần đầu tiên tôi đặt chân đến thành phố hoa lệ này, được tá túc tại thiền viện Vạn Hạnh, tôi thiết nghĩ nơi đây hội ngộ đủ thành phần trí thức trong xã hội, là cái nơi đào tạo biết bao hiền tài cho đạo pháp và dân tộc.


Ngoài giờ công phu tu học, tôi hòa đồng cùng đại chúng để “sản xuất tương chao” trong những năm này kinh tế nhà chùa có phần eo hẹp phải tự lực cánh sinh “nhất nhựt bất tác, nhất nhựt bất thực”. Vào một ngày đẹp trời, thoạt nhiên bỗng đâu đó bác Giáng xuất hiện thật là kỳ tuyệt mọi người bàn tán theo cảm tính của riêng họ, còn tôi lấy làm sung sướng như gặp được “cố tri” đón tiếp niềm nỡ chu đáo, lúc này ở Viện vào giờ chỉ tịnh ban trưa, sợ làm động chúng dễ bị quở trách, nhưng tôi cũng dàn xếp trật tự kỷ cương mọi diễn biến đều êm xuôi cả. Tôi chế trà pha nước mời bác uống, thấy bác rất hiền hòa, đôi mắt sáng ngời như Đạt Ma sư tổ, áo quần thì xốc xếch, giọng nói tiếng Quảng Nam đặc sệt, có lẽ bác nghe âm thanh của tôi, bác cũng đoán biết là người đồng hương, bác viết tặng tôi hai câu thơ:

Ngõ về em có nhớ không
Bóng vang đầu nước hình lồng cuối hoa.


(BG)

Và tiếp theo là bài thơ tặng Tấn Huệ đi tu
Đi tu tu hú ở chùa
Tuyệt trù ở tận cuối mùa lang thang


Một giờ phố thị mênh mang


Chanh hồng quít lục thu dàn loạn ly

Mắt xanh hình thể trụ trì
Thường văn nhứt nhạn báo kỳ lai thu


Đường qua ngôn ngữ tuyệt trù


Mừng xuân viễn vọng đêm bù cho đêm


(BG)


Sau một giờ chỉ tịnh chuông thiền viện báo thức tôi, cũng xin tạm biệt chia tay một cuộc hội ngộ đầy hứng thú, đầy ấn tượng đối với bác, để tiếp tục công tác chấp lao phục dịch cho tròn bổn phận của mình, nhưng vẫn dõi mắt trong theo hình bóng dáng đi thơ mộng đó, nào gậy gộc túi đãy đeo quẩy luộm thuộm đầy người, bác lên đường làm kẻ rong chơi từ hỗn độn. Nhiều người cho bác là nhà thơ “Điên” mà âu chăng bác cũng cà rỡn thú thật như vậy:

Bây giờ tôi dạy tôi điên
Chấp tay tôi lạy cả miền Hà Thanh.


(BG)


Tại sao nói bác Giáng điên? Điên sao mà có lý trí viết thơ, dịch thuật, lý luận hay tuyệt vậy! Tôi cho rằng có thể bác học nhiều, đọc sách thánh hiền Đông Tây Kim Cổ cũng bộn, tồn lưu trong tâm khảm nỗi bức xúc tư tưởng gây xung đột dễ trở thành người “dại chữ”? Nhưng không, ở đây bác Giáng hiện xuất nguồn năng lượng dồi dào sung mãn đặc sắc khác thường rất mực tài hoa!


Nhà thơ sống hồn nhiên thơ mộng như trẻ nhỏ vui đùa giỡn cợt miệng lảm nhảm, có khi nói tục lộng ngôn hí ngữ trêu ghẹo thật vi vu logích rất dễ thương: “H.T Minh Châu thương yêu sư cô Trí Hải đẻ ra Bùi Giáng”, nếu Hòa Thượng có nghe được cũng ôm bụng cười khì.

Thế ra thi sĩ trung niên
Là thằng bê bối quàng xiên trêu người


(BG – Thích Minh Châu Ca)


Ngưỡng kính thần tượng, tôn thờ hình bóng “Sư cô”, cái đẹp chân thiện mỹ lồng lộng vượt trên những đam mê chi phối đời thường, nhà thơ mơ màng gọi Phùng Khánh là Mẫu thân.

Ra sông nằm ngũ rập rình
Mẫu thân Phùng Khánh đẻ mình ra sao.


(Sa mạc trường ca)


Trong quyển thi ca Tư Tưởng, bác Giáng viết rằng: “Huống nữa là trong cõi thơ mộng chiêm bao tại bình diện thi nhạc phiêu bồng, Phùng Khánh đích nhiên là mẹ của tôi nốt. Tôi vốn là Trung niên thi sĩ. Ai có ngờ rằng những bài thơ bất tử tôi làm ra là do Phùng Khánh cả đấy. Mỗi phen tôi mơ màng nghĩ tới dung nghi diễm lệ Phùng Khánh thì dòng thơ bát ngát lại tuông ra ào ào. Vậy thì hiển nhiên như nhiên thiên tài của tôi là do liên tồn Phùng Khánh đẻ ra vậy. Tôi suy gẫm suốt bao năm trời nhận ra sự tình cố kỳ nhiên đó, mới dám mạo muội mạnh bạo gọi Phùng Khánh bằng một tiếng Mẫu thân. Há đâu phải bốc đồng mà gọi bướng?”


Nhiều khi Thi sĩ đi ngang về dọc xuống đường làm “cảnh sát giao thông” sau một vài giờ điều khiển cộ xe mệt nhọc lão cái bang ung dung tự tại ghé lại Vạn Hạnh xin tiền, được Sư cô Trí Hải (mẫu thân Phùng Khánh) nhiều lần an ủi vỗ về.

Mẹ về bảo nhỏ con thôi
Đừng đeo đai nghiệp suốt đời lầm than


Thơ là thẩn vậy tro than


Tàn canh con chết trên tàn mộng kia.


(BG – Thích Phùng Khánh Ca)


Nhưng đâu cũng vào đó, rồi thì:

Chạy quanh khu vực thần tiên
Mỏi chân mười ngón kết liên bốn mùa


Vườn cây trái ngọt trái chua.


Mù sương hấp dẫn về chùa ngủ quên


(BG)


Ngủ quên, một giấc ngủ, hiền lành và an lành không mộng mị, một giấc ngủ thánh thiện, nằm thanh thiên bạch nhật ở trước hiên chùa thẳng cẳng ngáy kho kho.


Thế mà...lại cũng...

Nửa đêm Bồ tát đề huề
Đi tu một trận còn mê khuynh thành


(Sa mạc phát tiết)


Năm 1988 tôi tá túc chùa Pháp Vân_Bình Thạnh gần đường Lê Quang Định để học khoa ngữ văn trường Đại học Tổng hợp, nhà Bùi Giáng cũng ở gần đó, tôi thường qua lại thăm bác luôn, bác cũng vậy ghé đến chùa là viết thơ tặng cho tôi và thầy Nguyên Tạng, ngoài ra bác nhờ cất dùm tờ khai sơ yếu lý lịch nữa chứ, tôi và bác có chụp chung một tấm hình vẫn còn lưu giữ kỷ niệm.


Mãi cho đến ngày 5-7-1996 tôi cùng nhà thơ Nguyễn Đức tác giả tập Thế Tôn Ca (gồm 4000 câu thơ lục bát) chưa có điều kiện xuất bản, đến thăm bác giống như mọi khi, bác nằm trên võng đu đưa xem dăm ba cuốn sách, với cặp mắt kiếng cộm dày, gãy gọng được bó cột vài sợi dây nilon, thân thể bác tiều tụy vì nắng táp mưa sa cũng mặt kệ cho đời, nhưng tâm hồn và trí tuệ thì quá ư là siêu việt.


Ngồi quây quần bên nhau, bác trao đổi với anh em cõi văn nghệ, rồi bác xin tiền để uống rượu nhâm nhi, tôi hoan hỷ biếu tặng, bác ứng khẩu thành thơ cầm bút viết ngay một mạch.

Bài thơ kính tặng đại ca
Đinh-Hồi-Tấn-Tuệ-Tưởng là muôn năm.

(BG)

Bác ha hả cười reo huở tay múa chân lăn từ trên võng xuống đất, tôi và Nguyễn Đức cũng rộn rã vui theo. Sau đó bác cho anh em chúng tôi hai tập thơ, bác đề tặng “Xin kính tặng nhị vị đại ca hai tập thơ Rông Rêu khốn nạn của Trẫm” (BG) ký. Tôi lấy làm sung sướng được bác quan tâm chiếu cố hỏi thăm nơi ăn chốn ở, tôi trả lời sau một thời gian vắng bóng ở Sài Gòn, về ở một thị trấn nhỏ ven biển Hàm Tân, chọn mảnh đất bên cầu suối Đó dựng một thảo am gọi là chùa Đây, để tập tành làm thơ, đọc sách cho vui “Bay về hàm dưỡng công phu” (Thơ - Nguyễn Đức) và cũng sắp ra Hà Nội tham quan viếng cảnh chùa, ghé thăm một số bạn bè văn nghệ, đến vấn an các cụ lão thành thi nhân tiền chiến! Nói đến đây bác Giáng rất hân hoan mở to đôi mắt miệng nhanh nhẩu nói rằng: “À thầy đi cho tôi gởi tập thơ để kính tặng nhà thơ Huy Cận”, tôi vui vẻ nhận lời, nhưng rồi cứ nhởn nhơ rong ruổi phố thị la cà đến lúc cạn túi cháy da, phải chờ đến tháng 3-1997 mới đi được, nhân dịp này ghé lại trụ xứ Liên Hiệp Các Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam ở 51 Trần Hưng Đạo – Hà Nội, trực tiếp xin diện kiện gặp bác Huy Cận và trao lại tập thơ Rong Rêu bác Giáng gởi tặng, bác Huy Cận tiếp đón tôi nồng hậu chuyện trò thân mật chí tình, bác lấy giấy viết bài thơ nhỏ 4 câu bỏ vào phong bì và ghi: “Kính gởi anh Bùi Giáng” (xin nhờ thầy Thích Tấn Tuệ đưa tận tay – cảm ơn – H.C)
Sau khi chia tay bác Huy Cận, tôi và nhà thơ Dương Hùng ghé thăm bác Tế Hanh, bác nữ sĩ Ngân Giang, bác Trinh Đường trước khi về lại Hải Phòng. Có một điều tôi băn khoăn áy náy trái ý sai lời với bác Huy Cận không trao thư “tận tay” cho bác Giáng vì tôi còn ở lại miền Bắc cho tới tháng 6-1997 mới về lại trong Nam. Nên chi tôi photocopy gấp gởi ngay bản phụ vào cho anh Nguyễn Đăng Trình kịp đăng tải trên tạp chí Thời Văn, lúc đó bác Bùi Giáng bất ngờ đọc bài thơ của bác Huy Cận gởi tặng trên trang sách mới in, sẽ hài lòng và cảm động xiết bao!

Đặc san chuyên đề về Thi sĩ Bùi Giáng dịp này tôi cảm tác bài thơ: Rong chơi giữa đôi bờ mộng thực, phát họa sơ thảo vài nét chân dung Trung niên thi sĩ, lại được đăng chung cùng hội cùng thuyền.


Cuộc đời và sự nghiệp văn học của nhà thơ Bùi Giáng, chúng ta không thể dùng ngôn ngữ để lột tả hết được cái “bất khả tư nghì” đó, chỉ mạo muội lấy vài giọt nước của biển cả đại dương mà nhấm thử, thì làm sao cho thắm thía tận cùng xương xẩu máu me. Chỉ gởi đến chút tình trong biết bao giai thoại, chia nhớ sớt nhung cho một nhóm anh em văn nghệ yêu quý thi sĩ Bùi Giáng.


Ngày bác từ giã cõi đời, tôi thật bùi ngùi thương tiếc, không đến được để thắp một nén nhang đưa tiễn, xin hương linh bác niệm tình thứ cho, mong duyên lành “ngàn thu rớt hột” nhà thơ hãy tái lai hội nhập cõi ta bà, để múa ca vi vút giữa trần gian thánh thiện này



Suối Đó – chùa Đây 20-9-2002
Đinh Hồi Tưởng


---o0o---


Vi tính: Thục Đức






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/06/2024(Xem: 3268)
Trong lúc dọn dẹp lại thư viện kinh sách bé nhỏ của mình, người viết vừa nâng niu, vừa bâng khuâng xao xuyến khi nhìn kỹ lại hơn 50 tác phẩm được biên soạn bằng chính năng lực, trí tuệ của quý danh tăng của thế kỷ 20 -21 đã ký tặng( mà người viết cho đấy là sách giáo khoa hàn lâm về Phật Giáo ) với những dòng chữ thật trân quý đầy tinh thần nhân văn cao cả của lý tưởng, lại mang đậm các giá trị đạo đức truyền thống trong Phật Giáo mà trong suốt đời tu học, khoảng 10 năm gần đây người viết mới được tiếp xúc những bậc hiền triết này.
15/06/2024(Xem: 1447)
Sau khi bang Niedersachsen của ông Tiến sĩ Albrecht thu nhận hơn 1.000 thuyền nhân từ chiếc tàu Hải Hồng, phân phối đi các vùng trong bang nhưng đông nhất vẫn là thành phố thủ phủ Hannover. Các thuyền nhân tỵ nạn này vừa từ cõi chết đi lên, nên rất cần một chỗ dựa cho tâm linh. Sau chuyến vượt biên thoát nạn, họ đã cầu nguyện Đức Mẹ Maria cứu vớt nếu là người Công giáo. Còn Phật giáo họ sẽ niệm Mẹ hiền Quán Thế Âm, hai hình tượng đã in sâu vào tâm thức, họ tin chắc hai Vị này đã ra tay cứu độ đưa họ đến bến bờ bình yên.
12/06/2024(Xem: 783)
Lời người chuyển ngữ: Thông thường khi nói đến ngồi thiền hay thực hành chánh niệm chúng ta lập tức nghĩ đến việc ngồi yên, ngồi một cách nghiêm trang và chú tâm vào hơi thở hay những cách khác (tùy theo phương pháp chỉ – quán…). Tuy nhiên chúng ta cũng nghe đến tứ oai nghi đi – đứng - nằm – ngồi, nghĩa là ta có thể giữ chánh niệm trong mọi hoàn cảnh và tư thế, điều này phụ thuộc vào năng lực, ý chí của mỗi cá nhân. Trong lá thư gởi độc giả của tạp chí Lion’s Roar (Sư Tử Hống), ngày 51/05/24 có đề cập đến việc ứng dụng và thực hành chánh niệm trong sự di chuyển động, trong lá thư này có dẫn lời của Francis Sanzaro một nhà leo núi chuyên nghiệp và cũng là một Phật tử đã áp dụng chánh niệm trong việc leo núi. Việc ứng dụng chánh niệm trong sự vận động hàng ngày đôi khi tôi cũng có chút xíu kinh nghiệm. Tôi thường chạy bộ, bơi lội… và giữ chánh niệm và cảm thấy thoải mái dễ chịu hơn là khi ngồi nghiêm trang trước bàn thờ Phật. Tôi nhận thấy mọi người ai cũng có thể áp dụng thực hành chán
12/06/2024(Xem: 750)
Sống ở đời, mọi người chúng ta ai ai cũng đã từng ít nhất một lần buộc miệng than: “Sao khổ vậy trời? Sao khổ thế này?”. Khổ là bản chất của đời sống hiện hữu, khổ là tất yếu vì sự thay đổi của vô thường. Đã sanh làm người, đã sống trong đời thì không thể tránh khỏi khổ, cho dù đó là tỷ phú cực giàu, tổng thống cực quyền hay là kẻ ăn mày khố rách áo ôm. Khổ có vô vàn nhưng chung quy lại không ngoài: Sanh, già, bệnh, chết, muốn mà không được, thương phải chia lìa, ghét phải chung đụng, thân và tâm đầy phiền não như lửa cháy. Khổ vì sanh – tử là điều bất khả kháng, khổ vì những ác nghiệp đã chín muồi thì cũng không thể tránh được, duy cái khổ của sự mong cầu, ham muốn, thèm khát là điều mà chúng ta có thể làm giảm thiểu hoặc tránh được.
04/06/2024(Xem: 962)
Ta lên núi, học làm Tiên nhẫn nhục, Mặc thói đời nhân ngã với thị, phi! Mây có hẹn, mà quên về cũng được, Gió có lay, trăng nghiêng ngã hề chi!
02/06/2024(Xem: 1358)
Một trong những lời dạy của Tuệ Trung Thượng Sĩ thường được đời sau nhắc tới là hãy phản quan tự kỷ. Đó là pháp yếu Thiền Tông. Nghĩa là, nhìn lại chính mình. Câu hỏi chúng ta nêu ra nơi đây là, phản quan tự kỷ thế nào?
30/05/2024(Xem: 952)
Đại Trí Độ Luận nói: “Biển cả Phật pháp, tin thì vào được”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tín làm tay. Như người có tay, đến nơi trân bảo, tùy ý nhặt lấy. Nếu người không tay, chẳng được thứ gì”. Cũng có câu: “Vừa vào cửa tín, liền lên Tổ vị”. “Mũi Tên Xuyên Vách” ra đời góp một niềm tin nhỏ cho người sơ cơ, chắc không tránh khỏi lỗi lầm. Rất mong bạn đọc bốn phương bổ chính để được tốt hơn trong những lần tái bản tới. Xin thành thật tri ân.
24/05/2024(Xem: 9114)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúc và suy tưởng. Những bước chân đơn độc của Thầy đã đi bốn vòng đất nước trong nhiều năm qua, để tu hạnh đầu đà là điều khó làm, không phải ai làm cũng được. Một hình ảnh chưa từng nhìn thấy, dù là trong tiểu thuyết hay phim ảnh: hàng trăm người dân, có khi hàng ngàn người dân, cùng ra phố bước theo Thầy, lòng vui như mở hội, niềm tin vào Chánh pháp kiên cố thêm.
17/05/2024(Xem: 762)
Bảo rằng mới, ừ thì là mới nhưng thật sự thì tháng năm đã từ vô thủy đến giờ. Tháng năm là tháng năm nào? Năm nào cũng có tháng năm, nếu bảo mọi tháng đều là tháng năm thì cũng chẳng sai. Năm, tháng, ngày, giờ… là cái khái niệm con người chế ra, tạm gọi là thế, tạm dùng để đo, đếm cái gọi là thời gian. Bản thân thời gian cũng là một khái niệm như những khái niệm dùng để đo lường nó. Bản chất thời gian là gì thì ai mà biết, nó vốn vô hình, vô tướng, vô trọng lượng, vô sắc, vô thanh… Nó không đầu không cuối và dĩ nhiên cũng không thể nào biết đâu là chặng giữa. Con người, vạn vật muôn loài và thế giới này có hình thành hay hoại diệt thì nó vẫn cứ là nó. Nó chẳng sanh ra và cũng chẳng mất đi.
17/05/2024(Xem: 1645)
Phần này ghi lại vài nhận xét về bản chữ quốc ngữ Sấm Truyền Ca và Lập Quốc Kinh, qua lăng kính của chữ quốc ngữ từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn cùng với các dạng chữ Nôm đồng thời. Rất tiếc là chưa tìm ra bản Nôm Sấm Truyền Ca hay Lập Quốc Kinh, do đó bài này phải dựa vào các dạng chữ quốc ngữ viết tay còn để lại. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài liệu chép tay của LM Philiphê Bỉnh (sđd) và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]