Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Phật dạy cách lang thang chơn chánh

30/07/202407:58(Xem: 1041)
Đức Phật dạy cách lang thang chơn chánh


Phat thuyet phap-3



Đức Phật
dạy cách lang thang chơn chánh

Cư Sĩ Nguyên Giác

 

Lang thang, nơi đây có nghĩa là đi lang thang. Đức Phật đã dạy các nhà sư nên đi lang thang thế nào? Các bản tiếng Anh thường dùng chữ “wander” để nói về hành vi lang thang. Có phải đây chỉ là một ẩn dụ, không hoàn toàn có nghĩa là rời chùa để bước xuống phố, rồi đi từ làng này tới xóm nọ, từ tỉnh này tới tỉnh kia? Bất chợt, có một vài Phật tử ngộ nhận rằng phải đi lang thang mới là nhà sư chơn chánh. Bài viết này sẽ ghi lời Đức Phật dạy về cách lang thang chơn chánh của các nhà sư, không phải là một hành trình “đường bộ” mà phải là một hành trình về tâm.  

Có thể thấy, khi chúng ta mở kinh ra đọc, đa số lời dạy chỉ thấy Đức Phật nói rằng, “này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến căn nhà trống, ngồi kiết-già, lưng thẳng, đặt niệm trước mặt; vị ấy chánh niệm hơi thở vô, chánh niệm hơi thở ra...” Nghĩa là, chủ yếu là dạy ngồi, không khuyến tấn đi lang thang. Giữa hành vi đi bộ từ ngày này tới ngày nọ, với hành vi tìm tới gốc cây hay căn nhà trống, ngồi xuống, lưng thẳng, đặt niệm trước mặt… là cả một trời mênh mông cách biệt.

Hành động bước đi trong Kinh Phật cũng có một ý nghĩa khác với chuyện bước đi ngoài đường lộ. Kinh SN 47.6 ghi rằng “hành xứ” -- tức là “cõi bước đi” – của người tu không có nghĩa là đưa chân bước tới, mà chỉ có nghĩa là cõi của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý… Đức Phật cảnh giác rằng chớ có đi tới chỗ ngoài hành xứ của mình, vì đi chệch ra là Ác ma sẽ chộp lấy cơ hội quậy phá. Như thế, đi lang thang nơi Kinh này chỉ có nghĩa là chuyện của “tâm hành” chứ không có nghĩa bộ hành. Cho nên, nói “đi” thực sự không có nghĩa là “đi” theo nghĩa đời thường. Ngộ nhận một chút, là sẽ hỏng.

Kinh SN 47.6, bản dịch của Thầy Minh Châu trích như sau: “Do vậy, này các Tỷ-kheo, chớ có đi đến chỗ không phải hành xứ của mình, chỗ cảnh giới của người khác. Này các Tỷ-kheo, đi đến chỗ không phải hành xứ của mình, đi đến cảnh giới của người khác, thời Ác ma nắm được cơ hội, Ác ma nắm được đối tượng. Này các Tỷ-kheo, chỗ nào không phải hành xứ của Tỷ-kheo? Chỗ nào là cảnh giới của người khác? Chính là năm dục công đức. Thế nào là năm? Có các sắc do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Có các tiếng do tai nhận thức … Có các hương do mũi nhận thức … Có các vị do lưỡi nhận thức … Có các xúc do thân nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Này các Tỷ-kheo, đây là chỗ không phải hành xứ của Tỷ-kheo, chỗ cảnh giới của người khác.” (1)

Trong truyền thống Theravada Thái Lan, ý nghĩa của đời sống lang thang được hiểu theo một nghĩa nhất định. Trong bài viết nhan đề “Mange in the Mind” nhà sư Thanissaro, một vị sư gốc Hoa Kỳ tu học ở Thái Lan và là người đã dịch Tam Tạng Pali ra tiếng Anh, viết, trích dịch như sau:

Cuộc sống của một nhà sư thiền định là một cuộc sống lang thang. Nhưng nếu bạn nhìn chúng tôi từ bên ngoài, có vẻ như chúng tôi không lang thang nhiều như vậy. Tuy nhiên, nhà sư Ajaan Maha Boowa nhận định rằng nơi thực sự để lang thang, nơi thực sự để khám phá, không phải là bên ngoài. Đó là những gì đang diễn ra bên trong thân và tâm của bạn. Đối với hầu hết chúng ta, đó là terra incognita, vùng đất mà chúng ta không biết…

…Cách ẩn dụ của nhà sư Ajaan Maha Boowa là, thân như một thành phố, với các đường phố và những tòa nhà. Các giao lộ bốn chiều là Tứ thánh đế; các giao lộ ba chiều là ba đặc tướng. Mọi thứ bạn cần biết đều ở ngay đây. Tất cả các công cụ bạn cần để biết, để giúp bạn biết, cũng ở ngay đây. Chỉ là bạn chưa dành đủ thời gian để khám phá về thân.” (2)

Nên ghi chú rằng, ba đặc tướng trong đoạn vừa dẫn có nghĩa là ba pháp ấn, nằm sẵn trong tất cả các pháp hữu vi: Khổ, Vô thường, Vô ngã. Như thế, Therevada Thái Lan (theo lời vị Tam Tạng Pháp Sư Thanissaro) không xem nặng chuyện đi bộ hành, vì “cuộc sống lang thang” được hiểu là nhìn vào thân và tâm để thấy sự thật chuyển biến nơi thân tâm, và để kinh nghiệm lời dạy của Đức Phật trong hành trình khám phá thân và tâm của mình.

Chỗ này không hề mơ hồ. Vì Đức Phật nói trong Kinh SN 35.23 về cái “tất cả” của ba cõi, sáu đường mà chúng ta đang sống và có thể kinh nghiệm thực ra chỉ là mắt và cái được thấy, tai và cái được nghe, mũi và cái được ngửi, lưỡi và cái được nếm, thân và cái được chạm xúc, ý và cái được tư lường. Ngoài cái “tất cả” đó ra, là ngoài thế giới bản thân từng người. Như vậy, khi nói lang thang, là chỉ trong giới vực này.

Trong Kinh SN 35.23, bản dịch Thầy Minh Châu viết: “Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết về tất cả. Hãy lắng nghe. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tất cả? Mắt và các sắc; tai và các tiếng; mũi và các hương; lưỡi và các vị; thân và các xúc; ý và các pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, gọi là tất cả. Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: “Sau khi từ bỏ tất cả này, ta sẽ tuyên bố (một) tất cả khác”, thời lời nói người ấy chỉ là khoa ngôn. Và bị hỏi, người ấy không thể chứng minh gì. Và hơn nữa, người ấy có thể rơi vào ách nạn. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, như vậy ra ngoài giới vức (avisaya) của người ấy!(3)

Trong nhóm Kinh Tập trong Tiểu Bộ Kinh, có một kinh dễ bị hiểu nhầm về ý nghĩa “đi lang thang.” Đó là Kinh Snp 1.3. Còn gọi là “Kinh Con Tê Ngưu Một Sừng” theo bản dịch của Thầy Minh Châu. Bản tiếng Anh là Kinh "The Horned Rhino" theo bản Anh dịch của Sujato, có tên là Kinh "The Rhino Horn: A Teaching for the Hermit-minded" theo bản Anh dịch của Laurence Khantipalo Mills, và có tên là Kinh "Khaggavisana Sutta: A Rhinoceros" theo bản dịch của ngài Thanissaro.

Hình ảnh con tê ngưu một sừng theo Đức Phật nói không có nghĩa là khuyến tấn các vị sư hãy đi lang thang trong rừng, mà chỉ có nghĩa là hãy tìm nơi vắng lặng để cư trú, bởi vì, trong Kinh này, Đức Phật lặp đi lặp lại tới 40 lần hai câu này:

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.”

---- Trích Kinh Con Tê Ngưu Một Sừng, bản dịch Thầy Minh Châu (4)

Bản Anh dịch của Sujato viết rất rõ, rằng không hề có chuyện đi bộ hành hay đi lang thang: “Live alone like a horned rhino.” (Dịch: Hãy sống đơn độc như con tê ngưu một sừng). Nghĩa là, nên sống đơn độc, sống tịch lặng. Trong khi Đức Phật lặp đi, lặp lại 40 lần rằng hãy sống đơn độc trong 40 đoạn thơ, chỉ có một đoạn thơ chen vào giữa nói rằng chỉ khi tìm được bạn lành, thì mới nên “Hãy sống với bạn ấy / Hoan hỷ, giữ chánh niệm.” Hiển nhiên, ngay cả khi sống đơn độc, hay ngay cả khi sống với bạn đồng tu, không có nghĩa là đi bộ lang thang.

Có một Kinh dạy về cách chơn chánh để lang thang, nhưng đọc kỹ, chúng ta cũng thấy không phải là Đức Phật khuyến tấn bộ hành, mà chỉ là những khảo sát về tâm. Kinh này, ký số Snp 2:13, trong bản tiếng Anh:

. của Sujato có nhan đề là “The Right Way to Wander” (Cách chơn chánh để lang thang);

. của Laurence Khantipalo Mills nhan đề là “Perfection in the Wandering Life” (Toàn hảo trong đời sống lang thang);

. của Thanissaro (ký số: Sn 2:13) nhan đề là “Right Wandering” (Lang thang chơn chánh).

. và bản tiếng Việt của Thầy Minh Châu nhan đề là “Kinh Chánh xuất gia(5) (Lang thang hiểu là xuất gia).

Đọc kỹ Kinh Snp 2:13, chúng ta không thấy nói chuyện bộ hành, mặc dù nhan đề có chữ “lang thang” (wandering) mà Thầy Minh Châu dịch là du hành. Nơi đây, xin phép dịch lại “Kinh lang thang chơn chánh” dựa vào ba bản Anh dịch và bản tiếng Việt của Thầy Minh Châu để cho rõ nghĩa như sau.

… o …



Phat thuyet phap-4


Sammāparibbājanīyasutta:
Kinh lang thang chơn chánh



Người hỏi: Con xin hỏi bậc ẩn sĩ, có trí tuệ vô lượng, đã vượt qua, tới bờ kia, đã tịch lặng, định tĩnh. Rằng khi một nhà sư đã xuất gia, rời bỏ các dục, cách nào chơn chánh để vị đó lang thang trong thế gian này?

Đức Phật đáp: Khi vị đó đã xóa bỏ niềm tin mê tín, về những điềm báo từ cõi trời, từ giấc mơ hoặc từ dấu hiệu trên cơ thể; khi đã rời bỏ sau lưng những vết nhơ của mê tín dị đoan, vị đó sẽ lang thang chơn chánh trong thế gian này.

Một nhà sư phải xua tan lòng tham đối với những niềm vui cõi người hay cõi trời; với sự tái sinh đã vượt qua và với sự thật đã hiểu, vị đó sẽ lang thang chơn chánh trong thế gian này.

Bỏ lại sau lưng mọi chuyện chia rẽ, một nhà sư từ bỏ sân hận và lòng keo kiệt; bỏ lại sau lưng mọi chuyện ủng hộ và kình chống, vị đó sẽ lang thang chơn chánh trong thế gian này.

Rời bỏ tất cả những gì được yêu thích và cả những gì không được yêu thích, không nắm giữ hay nương dựa vào bất cứ những gì; được giải thoát khỏi mọi thứ trói buộc, vị đó sẽ lang thang chơn chánh trong thế gian này.

Không tìm thấy cốt lõi nào trong các chấp trước, xa lìa ham muốn với những thứ họ đã có được, độc lập, không nương dựa vào ai hướng dẫn nữa, vị đó sẽ lang thang chơn chánh trong thế gian này.

Không còn chút gì gây hấn trong lời nói, tâm ý và hành động, vị đó chơn chánh hiểu được Diệu pháp. Khát khao sống chứng ngộ Niết Bàn, vị đó sẽ lang thang chơn chánh trong thế gian này. 

Không kiêu ngạo hả hê rằng, ‘người ta tôn kính tôi’; khi bị xúc phạm, vị đó không để bận tâm; không vui mừng khi được cúng dường thức ăn, vị đó sẽ lang thang chơn chánh trong thế gian này.

Rời bỏ lòng tham và lòng khao khát sống, vị đó xa lìa bạo lực và không còn khống chế ai; không còn nỗi nghi ngờ nào, đã gỡ bỏ xong mũi tên, vị đó sẽ lang thang chơn chánh trong thế gian này.

Biết những gì phù hợp với mình, vị đó sẽ không làm hại ai trên thế gian; ngộ nhập Chánh pháp như thực, vị đó sẽ lang thang chơn chánh trong thế gian này.

Vị đó không còn xu hướng tiềm ẩn nào, đã nhổ xong những gốc rễ bất thiện; xa lìa hy vọng, và không cần hy vọng, vị đó sẽ lang thang chơn chánh trong thế gian này.

Vị đó đã chấm dứt tất cả những ô nhiễm, đã từ bỏ lòng kiêu ngạo, đã vượt qua mọi tham dục; được thuần hóa, đã tịch lặng và định tĩnh, vị đó sẽ lang thang chơn chánh trong thế gian này.

Có lòng tin, có học vấn uyên bác, nhìn thấy đường đạo chắc thật, người trí không chọn phe phái giữa nhiều bộ phái; xa lìa tham, sân và thù nghịch, vị đó sẽ lang thang chơn chánh trong thế gian này.

Vị đó chiến thắng, thanh tịnh, đã gỡ bỏ bức màn che, tự tại trong các pháp, đã qua bờ kia, tịch lặng; là bậc thầy biết đoạn tận các sở hành, vị đó sẽ lang thang chơn chánh trong thế gian này.

Vị đó vượt qua tất cả những suy đoán về tương lai hoặc quá khứ, và hiểu thế nào là thanh tịnh; đã giải thoát ra khỏi tất cả những căn trần, vị đó sẽ lang thang chơn chánh trong thế gian này.

Vị đó hiểu tận tường trạng thái an lạc, hiểu thấu Chánh pháp, nhìn thấy rõ ràng những ô nhiễm được buông bỏ; và với sự chấm dứt của mọi sự bám víu, vị đó sẽ lang thang chơn chánh trong thế gian này.

Người hỏi: Bạch Thế Tôn, hiển nhiên, đúng như lời Thế Tôn dạy. Người sống như thế là một vị sư thuần thục, đã vượt qua mọi xiềng xích; vị đó sẽ lang thang chơn chánh trong thế gian này.


Hết Kinh Sammāparibbājanīyasutta



GHI CHÚ:



(1) Kinh SN 47.6: https://suttacentral.net/sn47.6/vi/minh_chau

(2) Thanissaro, Mange in the Mind: https://www.dhammatalks.org/audio/evening/2006/060309-mange-in-the-mind.html

(3) Kinh SN 35.23: https://suttacentral.net/sn35.23/vi/minh_chau

(4) Kinh Tê Ngưu Một Sừng: https://thuvienhoasen.org/p15a1544/chuong-01-pham-ran

(5) Kinh Chánh Xuất Gia: https://thuvienhoasen.org/p15a1545/chuong-02-tieu-pham

Kinh Snp 2:13: The Right Way to Wander: https://suttacentral.net/snp2.13/en/sujato   

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/02/2011(Xem: 2574)
Người ta luôn hỏi câu này, Phật đã đi đâu và hiện nay ngài đang ở đâu? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời cho những ai không có một sự tu tập về đời sống tâm linh.
13/01/2011(Xem: 21576)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
05/01/2011(Xem: 3901)
Sau khi Đức Phật nhập niết-bàn, xá lợi của Ngài được chia thành tám phần cho tám lãnh thổ như Vương Xá (Rājagaha), Vesāli,, thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu), Allakappa, Rāmagāma, Vethadīpa, Pāvā và Câu-thi-na (Kusinārā). Để có nơi tôn kính thờ xá lợi của các bậc thánh, kiến trúc của các ngôi tháp bắt đầu phát sanh và tiến hóa. Nhiều thế kỉ trôi qua, Phật giáo theo thời thế mà thăng trầm lên xuống và xá lợi hầu hết cũng bị thất lạc. Vào thế kỉ XX, các nhà khảo cổ trong khi khai quật vùng Taxila và ngọn đồi Long Thọ (Nāgārjunakondā) đã tìm thấy các viên xá lợi thật của của Đức Phật và hiện nay được thờ tại Sārnātha. Tác giả Tham Weng Yew đã viết về lịch sử và ý nghĩa của việc thờ xá lợi, tiến trình thăng hóa các đền tháp thờ cùng các hình ảnh minh họa. Tỳ-kheo-ni Giới Hương đã phát tâm dịch ra tiếng Việt và đây là lần xuất bản thứ 2.
05/01/2011(Xem: 2587)
Trong Việt Nam Phật Giáo sử luận, tập một, khi bàn về sự liên hệ giữa thiền và thi ca, giáo sư Nguyễn Lang viết: "Thi ca không có hình ảnh thì không còn thi ca nữa, cũng như đi vào lý luận siêu hình thì thiền không còn có thể là thiền nữa" Nhưng thế nào là hình ảnh, giáo sư Nguyễn Lang giải thích:
04/01/2011(Xem: 52540)
QUYỂN 5 MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI BỐN (Năm 574 trước TL) 91 CÁC LOẠI CỎ Đầu Xuân, khi trời mát mẻ, đức Phật tính chuyện lên đường trở về Sāvatthi. Thấy hội chúng quá đông, đức Phật bảo chư vị trưởng lão mỗi vị dẫn mỗi nhóm, mỗi chúng phân phối theo nhiều lộ trình, qua nhiều thôn làng để tiện việc khất thực. Hôm kia, trời chiều, cạnh một khu rừng, với đại chúng vây quanh, đức Phật ngắm nhìn một bọn trẻ đang quây quần vui chơi bên một đám bò đang ăn cỏ; và xa xa bên kia, lại có một đám trẻ khác dường như đang lựa tìm để cắt những đám cỏ xanh non hơn; ngài chợt mỉm cười cất tiếng gọi:
21/12/2010(Xem: 2026)
Năm đầu tiên (528 TTL): Sau khi thành đạo vào đêm rằm tháng Vesakha (tức tháng Tư âm lịch), Đức Phật đến ngụ tại khu vườn nai (Lộc uyển), vùng Chư thiên đọa xứ (Isipatana) tức Sa-nặc (Sarnath) ngày nay, gần thành Ba-na-lại (Benares). Tại đó, Ngài giảng bài kinh đầu tiên, kinh Chuyển Pháp Luân, hóa độ năm anh em đạo sĩ Kiều-trần-như (Kodañña) và cư sĩ Da-xá (Yasa).
24/11/2010(Xem: 12314)
Bộ Ảnh về Cuộc Đời Đức Phật, Bộ hình phác họa về lịch sử, cuộc đời đức Phật do một họa sĩ người Thái Jamnuon Jhanando thực hiện. Những lời giải thích do cá nhân chúng tôi chú thích, nếu có sai sót xin nhờ quý vị chỉnh sửa dùm cho đúng. Kính tri ân…
16/10/2010(Xem: 7325)
Đây là bài thuyết giảng về "Đức Phật của chúng ta" một đề tài dễ làm cho Phật tử ngạc nhiên, vì Đức Phật của chúng ta là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật rồi còn gì mà phải đặt vấn đề. Nhưng vấn đề sở dĩ được đặt ra là nhiều khi chúng ta chưa có được một cái nhìn thấu triệt tất cả tinh tường, đức tướng, hạnh đức, tin đức của đức Phật chúng ta. Do vậy, bài này, một phần giúp chúng ta trả lời những thiếu sót như vậy... Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng pháp mà Đức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
16/10/2010(Xem: 7016)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
12/10/2010(Xem: 5058)
Lời người dịch: bài này được trích dịch từ một tập sách nhỏ có tựa đề “ 101 điều về Giáo Lý” (Dharma 101) là những câu hỏi thường xuất hiện trong quá trình tu học của người Tây Phương. Những câu hỏi (Đức Phật là ai ? Đức Phật ở đâu ?, niềm tin quan trọng ra sao ?, tại sao chúng ta phải cúi chào ? bạn là ai ? nghiệp là gì ?) có thể nghe quen thuộc đối với nhiều người nhưng câu trả lời có thể không quen thuộc. Điều này có thể do có sự khác biệt về quan điểm hay về sự hiểu biết giữa các vị Thầy, hoặc sự khác biệt giữa các truyền thống. Ba Thừa chính yếu của Phật Giáo tại Á Châu (Tiểu Thừa, Đại Thừa và Kim Cang Thừa) có sự khác nhau về lý tưởng, pháp tu và cách trình bày. Ví dụ những câu hỏi về sự giác ngộ có thể có câu trả lời của một vị Thầy Đại Thừa ở Đông Á khác với câu trả lời của một đạo sư Kim Cang Thừa của Tây Tạng. Một câu hỏi về ý niệm của tánh không Phật Giáo sẽ có hai câu giải đáp khác nhau bởi một vị Sư Nam Tông ở Đông Nam Á và một vi Thầy bên Đại Thừa. Nhưng ở Tây Phương, nơi
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]