Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nghệ sĩ tính trong giai điệu mùa xuân

30/08/201307:08(Xem: 2997)
Nghệ sĩ tính trong giai điệu mùa xuân

681x454

Nghệ sĩ tính là tính nghệ sĩ được thể hiện qua cung cách tư duy, diễn đạt, minh họa, ứng xử với tha nhân trong sinh hoạt hằng ngày của mỗi người. Nghệ sĩ tính không phải là một đặc quyền hiếm có, chỉ dành riêng cho những cá thể biệt lệ, mà nó thẩm thấu, đượm nhuận, bàng bạc và lưu chuyển ít hay nhiều trong khắp dòng đời của từng nhân cách tại thế.

Một buổi chiều mùa xuân, tiết trời êm dịu, trên bước đường vân du hoằng hóa, Thế Tôn và A-nan, đệ tử thân cận nhất của Ngài, đang ngồi nghỉ mát trên bờ ruộng, nhác thấy một mục tử đã trọng tuổi, khổ người mảnh khảnh, nước da sạm nắng, nhưng có đôi mắt tinh anh với dáng đi thanh thoát, nhẹ nhàng, theo sau một bầy gia súc gồm cả bò, dê, cừu đang ăn cỏ dưới chân đê. Thế Tôn vỗ nhẹ vai A-nan, nói:

- A-nan, trông ông cụ mảnh mai nhưng cực kỳ cường tráng.

- Đúng vậy, bạch Thế Tôn, nhất là cái vẻ hồn nhiên tự tại của ông ta. Cứ nhìn cái roi ông vác trên vai với dáng đứng thênh thang giữa đất trời lộng gió thì rõ.

Ờ nhỉ! Và để bắt chuyện cho vui, Thế Tôn hỏi:

- Mục tử, ông là ai?

- Tôi là Dhaniya. Xin chào hai ngài.

- Mục tử, hình như ngươi có được niềm hạnh phúc thanh bình.

- Dạ không dám!… Có điều:

Cơm tôi đã nấu chín
Sữa tôi đã vắt xong
Trên bờ sông tôi ở
Cùng với vợ con tôi
Mái nhà lợp kỹ rồi
Trong nhà đèn sáng rỡ
Mưa rơi mặc mưa rơi.

Thế là tần số âm thanh mang tính nghệ sĩ đã được cộng hưởng, Thế Tôn mỉm cười đáp:

Ta đoạn trừ sân hận

Ta đốn phá mê lầm

Một đêm ta chờ đợi

Trên bờ sông mênh mông

Nhà ta không có mái

Lửa dục ta tắt rồi

Mưa rơi mặc mưa rơi.

Chất nghệ sĩ trong người như đang được xúc tác, Dhaniya tiếp:

Dê tôi không bị muỗi mòng

Cừu tôi mặc sức thong dong

Bò tôi đầy đồng gặm cỏ

Mặc cho mưa gió phũ phàng.

Thế Tôn nhìn Dhaniya bằng ánh mắt đồng điệu, đáp:

Ta đã làm bè kiên cố

Chống chèo đến cảnh niết bàn

Băng qua thác ghềnh tham dục

Đến được bến bờ thênh thang

Thuyền bè ta không cần nữa

Mặc cho mưa gió phũ phàng.

Dhaniya, với giai điệu hưng phấn, cất giọng:

Vợ tôi ngoan ngoãn vâng lời

Tiết trinh đức hạnh mấy đời phôi pha

Bao năm chung sống hài hòa

Nhân từ vui tính ấy là vợ tôi

Gần xa ai cũng mến người

Mưa rơi thì mặc mưa rơi sá gì.

Nồng độ thi hứng như được nhân lên theo cấp lũy thừa, Thế Tôn tiếp:

Tâm ta ngoan ngoãn vâng lời

Si mê ràng buộc nhiều đời gỡ xong

Bao năm tu tập tinh ròng,

Hiền hòa nhu nhuyến tâm ta sáng ngời

Khổ đau ác trược đoạn rồi

Mưa rơi thì mặc mưa rơi sá gì.

Dhaniya ra chiêu:

Tôi tự trả lương người giúp việc

Khẩu phần con cháu nhận nơi tôi

Không ai lên tiếng than hơn kém

Mặc sức mưa giăng ngập cả trời.

Thế Tôn phản đòn:

Ta không nô lệ cho ai cả

Đất trời lồng lộng ta thênh thang

Với ta không cần người nô lệ

Mặc sức mưa giăng trải hàng hàng.

Dhaniya lên giọng quả quyết:

Tôi có bò sữa, nghé tơ và bê con

Lại thêm một chó theo chăn chúng

Mưa gió hề chi mưa cứ mưa.

Thế Tôn cũng ngỏ lời xác tín:

Ta không bò sữa, nghé tơ và bê con

Cũng không có chó theo chăn chúng

Mưa gió hề chi mưa cứ mưa.

Dhaniya lập ngôn quyết liệt hơn:

Cọc nhọn đóng xuống đất

Mấy ai nhổ xem nào

Dây mới bện cỏ chắc

Trâu bò phá được sao

Mưa sa mặc mưa sa.

Thế Tôn liền thả giọng tối hậu:

Như chó bứt xiềng xích

Như voi phá xích xiềng

Vĩnh viễn ta đoạn tuyệt

Vào ra cõi ta bà

Mưa sa mặc mưa sa.

Ma vương, tên ác quỷ đang âm thầm theo dõi cuộc song thoại, nghe âm hưởng phản biện chan chát của Thế Tôn mà thấy ngứa gan, tím mật, bèn lên tiếng bênh vực Dhaniya với giọng điệu mỉa mai, châm chích nhưng cũng đầy ắp tinh chất thi hứng:

Có con sung sướng vì con

Có bò sung sướng vì bò

Sung sướng cho ai lắm của tiền

Người không tiền của khổ triền miên.

Chưa chắc!… Thế Tôn cười chúm chím, đáp:

Có con khốn khổ vì con

Có bò khốn khổ vì bò

Khốn khổ cho ai lắm của tiền

Người không tiền của sướng vô biên.

Bấy giờ Dhaniya nhìn Thế Tôn bằng ánh mắt quy ngưỡng. Ông quỳ rạp người đảnh lễ Ngài ba lần, rồi đưa tay vẫy chào A-nan và lùa đàn gia súc về.

Cuộc đối thoại mang tính nghệ sĩ giữa Dhaniya và Thế Tôn đã cho ta thấy hai quan điểm hạnh phúc trên đời: một là hạnh phúc tại thế, và hai là hạnh phúc xuất thế. Dhaniya có vợ đẹp con ngoan, nhà cao cửa rộng, ruộng vườn trù phú, gia súc chật chuồng, lúa khoai đầy lẫm, nên dù cho mưa bão sấm sét cũng chẳng khuấy động được tâm hồn của người đang tận hưởng vinh hoa phú quý. Ông đã bày tỏ tâm trạng thực sự an lành, hạnh phúc của mình qua ngữ điệu thi vị theo đà hưng phấn.

Thế Tôn thì ngược lại, vô sản thuần túy, có được căn nhà ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhưng không có mái, tức là có thân tướng giả hợp nhưng không còn vô minh và phiền não tác hại, nên Ngài đã tận hưởng được niềm hạnh phúc siêu việt như lời xác quyết dưới cội Bồ đề khi vừa đạt đạo:

Lang thang bao kiếp sống
Ta tìm kẻ xây nhà
Tìm mãi vẫn không ra
Nên luân hồi đau khổ
Hỡi kẻ làm nhà kia
Ta thấy mặt ngươi rồi
rui mè đòn dông gãy
Ngươi hết làm nhà thôi
Tâm ta chừ tịch tịnh
Tham ái dứt bặt rồi.

(PC. 153, 154)

Ngoài nội dung tư tưởng và phong cách nghệ sĩ thuộc kiểu ngẫu hứng thượng thừa, điểm thú vị nữa là Thế Tôn đã cho ta thấy cái mà ngôn ngữ đương đại gọi là nguyên tắc “phản biện” thì thuật ngữ thiền môn gọi là “đối trị tất đàn”, tức là sử dụng những phương tiện có thật, tất yếu trên diễn đàn trái đất này để luận giải và minh chứng sự thật. Tất đàn (siddharta) có nghĩa là thành tựu. Thế Tôn đã giúp cho Dhaniya thành tựu biện chứng và thấy rõ bản chất của cái gọi là hạnh phúc tại thế, và hạnh phúc xuất thế. Ngay cả tên ác quỷ cũng được Ngài khai hóa theo nguyên tắc “đối trị” này.

Tóm lại, theo nhãn quan thông thường, có nhiều tài sản, gia súc và con cái là có hạnh phúc. Đối với Thế Tôn, tài sản, gia súc và con cái là nhửng biểu tượng ẩn dụ, chỉ sự ràng buộc, aí nhiễm và phiền não. Nhưng suy cho cùng, dù tại thế hay xuất thế, hạnh phúc vẫn là hương liệu quý hiếm, sưởi ấm lòng người, tăng trưởng nghị lực, và dẫn đến thành tựu đạo nghiệp, như lời lục tổ Huệ Năng:

Phật pháp tại thế gian

Bất ly thế gian giác

Ly thế mích bồ đề

Hiệp như cầu thố giác.

Tạm dịch:

Phật pháp chan hòa khắp thế gian

Chẳng xa trần thế chứng niết bàn

Xa rời cuộc lữ cầu chánh giác

Như tìm sừng thỏ giữa nhân gian.

Mong sao tinh thần nghệ sĩ và thiền vị thi ca lúc nào cũng rạng rỡ trong lòng người con Phật.

(Tịnh Minh, đã đăng trong tuần báo Giác Ngộ, số 311, ngày 12-1-2006. Mừng Xuân Mới Bính Tuất, 2006)

Những vần thơ đối thoại trên được trích từ ấn phẩm Cuộc Đời Đức Phật, Tịnh Minh dịch.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/08/2013(Xem: 6668)
Theo sử sách, vừa mở mắt chào đời, thái tử Tất-đạt-đa (Siddhartha) đã đứng dậy, ngoảnh mặt nhìn bốn hướng, rồi đi bảy bước, tay trái chỉ lên trời, tay phải chỉ xuống đất, nói rằng: “Trên trời, dưới trời chỉ có Ta là chí tôn”. Xong Ngài nói tiếp: “Từ vô lượng kiếp đến nay, phen này là hết”. Hai lời tuyên bố đó có tính cách quyết định mục tiêu hành động của Ngài: đoạn trừ phiền não, quét sạch vô minh, giải thoát sanh tử, chứng đắc niết bàn, thanh tịnh an lạc.
28/07/2013(Xem: 5487)
Footprint of the Buddha (BBC 1977)
28/07/2013(Xem: 5520)
The mystery surrounding the bones of the Buddha dates back more than 100 years ago, when colonial estate manager William (Willie) Peppe and his workers began digging at a mysterious hill in Northern India. Peppe had no idea what they’d find just a little more than 20 feet down. They unearthed an astonishing discovery: a huge stone coffer, containing five reliquary jars, more than 1,000 separate jewels – carved semi-precious stones and gold and silver objects – and some ash and bone. One of the jars bore a Sanskrit inscription which, when translated, stated the jar contained the remains of the Buddha himself.
27/06/2013(Xem: 2659)
Một thời đức Phật ngự tại vườn trúc Ca Lan Đà thuộc thành La Duyệt nước Ma Kiệt. Bấy giờ trong thành có một Trưởng giả giàu có tên Thi Lợi Quật, ông chỉ gần gũi các Ni Kiền ngoại đạo, và không để ý đến Phật pháp.
01/06/2013(Xem: 6590)
Theo truyền thống Phật giáo Theravāda, Vesak là lễ kỷ niệm ba sự kiện trọng đại gắn liền với cuộc đời Đức Phật: ngày Đức Phật Đản sinh, ngày Đức Phật Thành đạo, và ngày Đức Phật nhập Niết-bàn.
21/05/2013(Xem: 2598)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
18/05/2013(Xem: 5976)
Trong kinh điển Pāli không có dấu hiệu nào cho thấy Đức Phật đã từng biết đọc biết viết cả(26)của H.W. Schumann, là một luận điểm võ đoán, nếu không nói là chưa phản ánh đúng sự thật lịch sử. Gần mười năm trước, lần đầu tiên tiếp cận tác phẩm Đức Phật lịch sử(1)của H.W. Schumann qua bản dịch của cô Trần Phương Lan, cảm giác đầu tiên của chúng tôi là sự kính phục về độ uyên bác của tác phẩm cũng như sự dấn thân khoa học của bản thân tác giả. Lời giới thiệu tác phẩm của HT.Thích Thiện Châu trong bản dịch tiếng Việt cũng đồng quan điểm này, khi ngài cho rằng: H.W. Schumann đã dày công nghiên cứu và xây dựng hình ảnh của Đấng Giác Ngộ như một người sống thật trong khung cảnh thật của Ấn Độ cổ đại, với những nhận xét khách quan của một học giả nghiên cứu có hệ thống rõ ràng theo phương pháp khoa học. Cái nhìn của học giả H.W. Schumann về Đức Phật có vẻ khác lạ với quan niệm về Đức Phật của Phật tử Việt Nam, nhưng đó chính là điều bổ ích làm tăng giá trị của quyển sách trong sự đóng góp vào
25/04/2013(Xem: 2795)
Mục đích của tâm lý trị liệu là để chữa trị, thoa dịu và làm vơi bớt nỗi khổ đau của những người đang bị dày vò bởi nhiều vấn đề nan giải trong cuộc sống, hay những người được chẩn đoán là đang mắc bệnh tâm thần. Về điểm này, một số câu hỏi sau đây vẫn chưa có sự đồng thuận: tâm lý trị liệu là gì, bệnh tâm thần là gì, kỹ thuật chữa trị ra sao, mục đích để làm gì, làm thế nào để chữa lành bệnh, hoặc phương pháp này hữu hiệu ra sao. Nói cách khác, bằng cách đặt những câu hỏi ấy, chúng ta đòi hỏi sự xác nhận vị trí của phương pháp này trong hệ thống tâm lý trị liệu của phương Tây.
22/04/2013(Xem: 7264)
Ròng rã bốn mươi chín năm đức Phật thuyết pháp, đều là tùy theo căn cơ, hay nói cho rõ hơn, tùy theo bệnh “chấp thật” sâu hoặc cạn của chúng sinh mà cho thuốc khác nhau. Vì thế, kinh Phật đã phân chia ra “Liễu nghĩa” và “Bất liễu nghĩa”.
10/04/2013(Xem: 7337)
Trong các buổi lễ tụng kinh cầu an, chư Tăng cũng như những người cận sự nam - nữ không thể thiếu bài kệ "Jayamangalagàthà - Bài kệ Hạnh phúc thù thắng". Bởi vì bài kệ này tán dương, ca tụng oai lực của Ðức Phật đã cảm thắng tám trường hợp xảy ra vô cùng khó khăn. Mỗi trường hợp Ðức Phật vận dụng mỗi pháp, không những để đối trị mà còn làm cho đối phương cảm phục phát sanh đức tin xin quy y nơi Tam bảo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567