Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mười Hai Nhân Duyên

19/11/201705:51(Xem: 5954)
Mười Hai Nhân Duyên



Duc The Ton 1
MƯỜI  HAI  NHÂN  DUYÊN

Đức Hạnh

   Trên mặt trái đất đã và đang có núi cao, đồi thấp, suối cạn, ghềnh thác, đất, cát, đá cuội, ao, hồ, sông dài, biển rộng, bầu trời, mây bay, gió thổi, nắng, mưa, bão tố, không khí nóng, mát, lạnh lẻo, các loại cỏ, hoa, cây cối…Đó là chúng sanh không có tình. Muôn loài Súc Vật lớn, nhỏ trên khô, dưới nước, và các chủng loại Con Người. Đó là chúng sanh có tình. Tất cả, đều do vô số Duyên giả hợp lại mà có bản thể, chứ mỗi loài không thể tự có thân (không tự thể), như đã được nói rõ ở bài “Khai Thị Chúng Sanh, Ngộ Nhập Tri kiến Phật”.      

  Nói rõ lại, Duyên giả hợp, là duyên làm nhân kiến tạo tổng thể cho muôn loài chúng sanh không tình và chúng sanh có tình (con người và môn loài súc sinh). Nhưng, riêng về loài Người được có thêm “Mười Hai Nhân Duyên”, thường gọi “Thập Nhị Nhân Duyên”. Sở trụ (nơi chốn) của Mười hai nhân duyên trong tạng thức loài Người. Chỉ có loài người mới có 12 nhân duyên,  muôn loài súc sinh không có. Sở dĩ loài người có 12 nhân duyên, là vì loài Người là linh vật tối thượng có tâm ý hiểu biết lớn, có nhận thức về sự vật, sự việc phải, trái, đẹp, xấu, ngon, dở, thương, ghét, giận hờn, tha thứ v.v…Thế gian gọi tâm hiểu biết lớn của loài người, là linh hồn. Trong Phật giáo thì gọi thần thức, thần hồn, giác linh, A-lại-da-thức.  Gọi tâm biết của chư Phật, Bồ tát là bạch tịnh thức. Giác linh của chư Tôn đức. Gọi tâm biết của muôn loài súc sinh là giác hồn, sinh hồn.

   Triết lý Mười Hai Nhân Duyên, do Phật Thích Ca Mâu Ni chứng đạo tìm ra, chứ không phải do Phật sáng chế, cho nên Phật nói : “Pháp này do ta chứng được, nó thật là sâu kín, khó thấy, siêu lý luận, vi diệu, tịch tịnh, cao thượng. Chỉ có người trí mới hiểu thấu được định lý y tánh duyên khởi pháp này”.

   Nghĩa của cụm từ Duyên Khởi. Duyên, nghĩa là liên kết, tiếp xúc. Khởi, là vùng lên, trổi dậy. Cái gì trổi dậy ? Tâm con người trổi dậy. Trổi dậy cái gì ? Trổi dậy lời nói và hành động; đa số ác nhiều hơn thiện. Lực nào khiến cho tâm người trổi dậy những lời nói và hành động ác ? Mười Hai Nhân Duyên là nhân tố tác động. Chúng hiện hữu trên một vòng tròn sanh tử luân hồi tiếp nối nhau xoay chuyển từ quá khứ, hiện tại và tương lai; cứ như thế mà xoay vòng khởi điểm  không đầu, đuôi. Mặc dù Vô minh đứng đầu của 12 chi nhân duyên, chỉ số theo thứ tự. Tất cả 12 chi nhân duyên, chi nào cũng có tính chất làm nhân, làm duyên với nhau để tạo nên một sinh mệnh con người sống, chết, luân hồi (ra, vô, lên, xuống 6 cõi). Nói theo quy luật của Hoa Nghiêm; “Cái này có, cái kia có. Cái này sinh, cái kia sinh. Rõ ràng, trong tâm con người vốn có tính vô minh ( tối tăm, ngu si, đần độn) ưa  sinh khởi ra ý niệm cướp của, giết ngươi, tức thì hành động ngay không sợ ai cả. Sau đây là 12  nhân duyên liên đới nhau : Do có Vô minh mà có Hành. Do Hành có Thức. Do Thức Danh Sắc.  Do Danh SắcLục nhập. Do Lục nhậpXúc. Do XúcThọ. Do Thọ Ái. Do ÁiThủ. Do Thủ Hữu. Do Hữu Sinh. Do Sinh Lão tử.

   a- minhHành NHÂN quá khứ.

   b- Thức, Danh Sắc, Lục nhập, Xúc, ThọQỦA hiện tại.

   C -Ái Thủ, Hữu NHÂN hiện tại.

   d- Sinh, Lão tửQỦA vị lai.

 

     TÍNH CHẤT CỦA MƯỜI HAI NHÂN DUYÊN

1- VÔ MINH: Sau khi chứng đạo, Phật thấy tâm của loài người ở thuở ban đầu từ các hành tinh (cung Trời Đao Lợi, Đấu Xuất…) xuống Trái đất, thì thường hằng rỗng lặng nhưng, dần dần bị  mờ đục, tối tăm; qua các trạng thái đần độn, vô ý thức, si mê, mù quáng, không nhận ra thế nào là chánh đạo, tà đạo, tội, phước , không thấy tự tánh của mình; huống hồ làm sao có thể nhận chân được thực tướng vô ngã của các pháp ! Tất cả, giai do bản thân vật chất, nên bị ảnh hưởng vô số vật chất từ Trái đât. Gọi tính vô minh đó, là chủng tử ô nhiễm.  2- HÀNH: Hành động tạo tác các nghiệp của thân, miệng, do biến động của tâm thức hướng ra ngoại cảnh gọi là tâm hành. Ý, (tư tưởng),tư duy theo chiều động, để rồi khẩu nói ra lời, thân làm  làm các việc thiện hay ác đều đó là Hành.  3-THỨC : Thức ở đây, là A-lại-da-thức, hay còn gọi nghiệp chủng thức. Tất cả nghiệp mà con người tạo ra, đều do Thức a-lai-da chỉ đạo cho thân, miệng tạo tác, rồi huân tập vào nội tạng của a-lại-da. Cho nên Thức này cũng gọi là Tạng thức . Vai trò mang yếu tố tiếp nối giữa kiếp sống quá khứ, hiện tại của con người là giai đoạn đầu tiên sanh ra tại Trái đất. 4- DANH SẮC: Danh thuộc về tinh thần, cho nên không có hình trạng, sắc, tướng gì cả nhưng, vẫn có những hiện tượng vui vẻ, sung sướng, hạnh phúc, buồn rầu…do nghiệp thức phát động mà có, gọi là hiện tượng tinh thần (DANH).  Vật chất (SẮC) hiện hữu bản thân con người do tổng hợp của Ngũ  Uẩn, trong đó bốn uẩn : Thọ, Tưởng, Hành, Thức .Bốn Uẩn này chỉ có tên, không có tính chất chạm xúc, ngửi, nếm, nghe, thấy…Tức là chỉ có tên (DANH), không có tướng trạng hiện tượng hiện thực. Bốn  uẩn kia thuộc vật chất, sinh lý trong đó : đất, nước, gió, lửa, tứ đại chang hòa trong bản thân con người có hình, có chất, mầu sắc, mùi, vị, chạm xúc, ngữi, nếm, nên gọi là Sắc. Còn danh, là tinh thần được thấy trong giây phút cha và mẹ ân ái, yêu thương, để rồi sau đó người mẹ thụ thai. Qua đây cho ta thấy rõ, do tinh thần ân ái được có tên Nghiệp thức, tức  là DANH. Danh kết hợp với trinh trùng của cha, noãn châu của mẹ ,Sắc.  5- LỤC NHẬP : Sáu giác quan: Mắt, tai, mũi, miệng, thân (tay chân) và Ý trong bào thai. Chúng tuần tự phát triển và hoạt động tự nhiên sau khi thai nhi trưởng thành toàn diện và chào đời, lớn lên. Sáu giác quan là có 6 đối tượng, lục trần : Sắc , thinh, hương, vị,  xúc, thân, pháp, để phản ảnh, gọi là Lục Nhập. 6- XÚC :  Sáu giác quan con người luôn tiếp xúc với lục trần là điều ắt phải của sự sống, như mắt tiếp xúc để thấy cảnh vật, tai tiếp xúc với âm thanh, mũi ngữi mùi v.v…7- THỌ: Sáu giác quan tiếp xúc với lục trần, tâm ý khởi niêm nhận chịu bằng lòng và cảm thấy ưa thích, vui sướng gọi là “lạc thọ” hay không bằng  cảm thấy khó chịu, bực bội, khổ tâm, gọi là “khổ thọ” Có khi cảm thấy không khó chịu, cũng không dễ chịu, gọi là “xả thọ”. 8- ÁI : Ái còn gọi là “Ái dục”, là trạng thái khao khát dục vọng, ham muốn, đam mê tình ái dục lạc của trần cảnh (ngũ dục- thất tình). Nếu không nói rằng Ái là nguồn sống của nhân loại thế gian. Cho nên, vật chất nào quyến rũ lòng người ưa thích, khởi tâm muốn có cho bằng được, bôn ba đi tìm để thỏa mãn lòng Ái. Hoặc thứ nào con người chán nãn không còn ưa thích, thì tránh xa, vứt bỏ, hủy diệt đi không còn Ái. Ý niệm, lời nói, hành động ưa thích và chối bỏ, nếu không nói rằng; đó là nền tảng chính yếu  thúc đẩy thân, khẩu, ý  tạo nghiệp ác : ham muốn và phản bội, hủy diệt. 9- THỦ : Nghĩa là bám giữ lấy đối tượng vào lòng sau khi đạt được. Đối tượng đó, là những thứ cho sự sống, như tình ái, chức quyền, của báu, cho nên cố sức bám giữ đừng để mất, gọi là Thủ. Kể từ đó phát sinh ra những ý niệm về Ngã : nhân ngã cái Tôi, những gì Thuộc Về Tôi (ngã sở). Những tư tưởng bảo thủ này do ba thứ Thân Miệng, Ý tạo nên dù là thiện hay ác, cũng đều ở nghĩa củng cố, bảo thủ, bảo vệ cho cái TÔI và những gì “Thuộc Về Tôi”. Đó là THỦ.  10- HỮU : Nghĩa là Có, Hữu cũng gọi là nghiệp. Những nghiệp nhân mà con người tạo ra ở kiếp này dù thiện hay ác. Trong số những nghiệp này, có những nghiệp vui quá là vui, chúng mình vui nhiều. Bên cạnh đó cũng có những nghiệp quá ư khổ đau, chúng mình quá đau. Theo định luật nhân quả, thì những nghiệp (HỮU) mà con người tạo ra trong kiếp này, cũng chính là quả báo nghiệp sẽ bị thọ thân ở những cảnh giới của các loài chúng sinh khác nhau: lông mao, lông vũ, không lông, hai chân, bốn chân, nhiều chân, không chân trên khô, dưới nước. Với hành giả tu tập Phật pháp, đã thông đạt lực của HỮU này trong 12 nhân duyên bằng cách quyết tâm hành trì giới luật, tức là làm các việc thiện và thiền định để giữ tâm hồn cho thanh tịnh, đúng nghĩa “Tu là chuyển nghiệp”. Một khi HỮU không còn nữa, thì 11 cái kia trong 12 nhân duyên, cũng theo đó mà biến mất, đúng với định lý của Hoa Nghiêm “Cái này có cái kia có”. “Cái này không, cái kia cũng không”.

  11-  SINH :  Sinh được chỉ cho kiếp mới, do Hữu, tức là Nghiệp. Lực của Nghiệp dẫn đi đầu thai vào các cõi trên (Phật, Trời, Tiên, Thánh, Người ), dưới (Ngạ quỷ, Súc sinh) gọi là Sinh  sau khi thân mạng con người nói riêng chết đi. Hay từ các loài ngạ quỷ, súc sinh sau khi  mãn kiếp, hết nghiệp cũ (HỮU) , được thác sinh trở lại làm người, gọi là Sinh. Qua đây, cho quý vị hiểu SINH, được chỉ chung cho Phật Bồ Tát, Trời, Người, Thánh, Thần và các loài súc sinh, ngạ quỷ, tất cả được, bị SINH vào cõi nào đó, trên, dưới; chứ không phải chỉ SINH ở kiếp người. Tất cả do HỮU (nghiệp) mà có SINH. Nghiệp Phật, sinh cõi Phật; nghiệp Trời sinh cõi Trời; nghiệp người sinh cõi người; nghiệp súc sinh, ngạ quỷ sinh vào ngạ quỷ, súc sinh.

  12-  Lão tử : Sanh ra làm người, hay các loài súc sinh tại Trái đất này, là cõi vật chất, cho nên bản thể con người và các loài vật, đều là phần mềm, do đó phải bị già và chết theo định luật vô thường, không thể tránh khỏi.

     NHẬN THỨC

Mỗi tánh của 12 nhân duyên trong mỗi bản thân con người, tự nó diễn biến hành hoạt, thì cái tính phía trước nó, như Hành trước Vô minh, Hành bị ảnh hưởng theo mà khởi lên hiện tượng hành hoạt hiển lộ ra một hay nhiều hành động, lời nói thiện, ác hay còn gọi là Nghiệp (khẩu nghiệp, thân nghiệp), chứ không phải 12 nhân duyên cùng lúc duyên nhau.

   Mười Hai Nhân Duyên, là cái chuỗi vòng tròn sinh, tử luân hồi của loài người suốt trong ba thời kỳ quá khứ, hiện tại, vị lai liên tục  xoay mãi không chấm dứt. Khi thì sinh làm người; khi thì thánh; khi thì trời; khi thì ngạ quỷ, súc sinh…Cứ ra, vô, lên, xuống các cõi trên, dưới. Tất cả do vô minh, tâm đen như mực tàu, như căn nhà không đèn, mặt đất trong đêm không trăng, sao. Con người đi trong căn nhà tối, bị va chạm vào cột, vấp ngã xuống đất. Đi ngoài không gian đêm tối, con người bị lọt vào hố, vực sâu, vấp té ngã xuống… Nói rõ hơn tâm con người không có tri thức nhân bản, chỉ có tính biết tham, sân, si dục lạc vật chất, là lực sống theo bản năng, đói ăn, khát uống, trong đó tạo ra những hành động hung hãn sát hại, giành dựt vật chất kẻ khác, cả đời không phân biệt được phải, trái là gì ! Không biết tội, phước, đạo đức, Phật, Trời, Thiên đàng, địa ngục, ngạ quỷ ở đâu, ! Gọi tâm đen tối đó là sinh hồn, giác hồn, không phải linh hồn. Cho nên dù là thân người được có các Duyên : thức, danh, sắc, lục nhập, xúc, thọ nhưng,các duyên đó cũng đều là có tính vô minh đen tối, để rồi tiếp tục tạo ra vô số nghiệp ác (Hữu ác) do cái tâm ái quá ái, thủ quá thủ (ôm chặc, không buông bỏ, cực đoan) trong đời sống hiện tại, nếu không nói là ngạ quỷ, súc sinh. Chính đây là nguyên nhân đưa đến có sinh, có lão tử ở đời sống mới của kiếp sau (vị lai). Cứ như thế, nguyên nhân quá khứ cho hiện tại; hiện tại làm nguyên nhân cho vị lai ; hiện tại trở thành quá khứ, vị lai trở thành hiện tại, rồi lại đến vị lai nữa…Vòng sinh tử luân hồi tiếp nối xoay vòng không ngừng. Kiếp mới hiện tại là loài người, thì mới có 12 nhân duyên trong tâm thức, các  loài khác không có 12 nhân duyên, chỉ có một tâm đen tối, năng lực của tâm đen này(vô minh) là kiều kiện sinh ra sinh hồn, giác hồn, cái biết theo bản năng sinh tồn.

  Đạo lý 12 Mười Hai Nhân Duyên, hàm chứa toàn bộ giáo lý “Duyên Khởi”, nền đạo lý của Phật giáo mang tính triết học. Mười hai nhân duyên, luôn nối kết nhau mà hiện hữu ở các hành động, lời nói thiện, ác. Mười hai nhân duyên làm nhân và quả  với nhau, để tạo thành vòng tròn sinh sinh, tử tử như bánh xe đang quây tòn không có duyên nào bắt đầu, không có duyên nào chấm dứt. Tất cả do vô minh, chủ tể khởi động lây lang sang các duyên khác bị biến động theo, mà sinh ra cái riêng biệt: Hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử. Hay nói khác hơn, 11 duyên trên, đều mang bản chất vô minh, nếu không nói là như các con của mẹ, tất cả giống tánh mẹ, bị nhiễm chất độc từ mẹ. Nói khác nữa; những thứ riêng biệt này của 11 duyên, giống như con người bị nhiều chứng bịnh khác nhau, do cái miệng (biểu thị vô minh)  ăn, uống đủ thứ chất độc. Qua đây cho ta thấy vô minh là kiều kiện bao trùm lên các duyên khác. Đích thực có vô minh, là chủ tể sinh ra vòng sinh tử, luân hồi của loài người. Nếu một trong 12 nhân duyên, bất cứ duyên nào đó bị tiêu diệt do con người biết cách tu tập để diệt. Đúng với  lý của Bát Nhã; “ … Kiến ngũ uẩn giai không” . Theo định lý Hoa Nghiêm : Cái này không, cái kia không. Đúng thật;   Sanh diệt- thì Lão tử diệt.  Hữu diệt- thì Sanh diệt.  Thủ diệt-Hữu diệt.   Ái diệt- Thủ diệt.  Thọ diệt- Ái diệt.  Xúc diệt- Thọ diệt”.  Lục nhập diệt-Xúc diệt.  Danh sắc diệt-Lục nhập diệt.   Thức diệt-Danh sắc diệt.  Danh sắc diệt- Thức diệt.  Hành diệt-Thức diệt. Hành diệt- minh diệt.  Thì tức khắc cái vòng sinh tử, luân hồi liền bị đứt tung ra từng khúc.

 

       QUÁN CHIẾU 12 NHÂN DUYÊN

   Mười hai nhân duyên trên cơ sở quán chiếu theo chiều thuận từ vô minh đến Sanh, Lão Tử để thấy rõ một sinh mệnh con người trên vòng sinh, tử, luân hồi khổ đau liên tiếp trong ba đời : quá khứ, hiện tại, vị lai, gọi là “Tam Thế Lưỡng Trùng Nhân Quả” không dứt là do vòng kim kô vô minh, mà bản thân con người hiện tại chính là biểu tượng cho khổ đế, tập đế cùng thường hằng hiện hữu trong thân, tâm con người từ lúc sanh ra, lớn lên sống giữa trường đời cho đến lúc chết một cách rõ ràng.

    Theo cách quán 12 nhân duyên, hành giả phải quán theo chiều ngược, gọi là hoàn diệt quán. Quán từ chết (tử) già (lão) sanh, hữu…cho đến hành, vô minh (chót), để thấy vòng sinh tử luân hồi, rồi hành giả tự  mình nhận thức : “Một khi vô minh chìm lặn, thì sinh tử khổ đau chấm dứt” (Diệt đế), tức thì niềm an lạc, giải thoát có mặt (Đạo đế). Qua đó cho ta thấy hai thứ vô minh và giải thoát luôn luôn là hai mặt hiện hữu trong tâm con người trên vận hành của đời sống qua những tháng rộng, năm dài, cơ cực. Cho nên vô minh càng vơi đi, thì niềm an lạc cũng theo đó được vơi đi.

   Trên bước đường tu tập Phật pháp ở bất cứ pháp môn nào, Tịnh độ niệm Phật A Di Đà, Thiền định, Mật tông trì các thần chú Đà La Ni, quán chiếu các pháp vô ngã…để tìm cầu cho mình con đường giải thoát, hành giả phải tinh tấn, quyết tâm ngăn chặn những nhân duyên xấu, ác, đừng để lọt vào, chính là phương cách diệt trừ vô minh. Một khi tâm hết vô minh, tức thì các duyên khác cũng bị diệt luôn, do cây đèn trí tuệ bừng sáng, gọi là chỗ nào có ánh sáng, không có bóng tối. Tâm ý sáng, thì không có vô minh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/08/2015(Xem: 5519)
Chúng ta cần biết rằng tu để thành Phật, là điều rất khó nếu không nói là hoang tưởng. Vì bản thân cái sự tu hành chuyên nghiệp trong chùa của chúng ta, nó cũng giống như là trường lớp giáo dục vậy. Nó có quá nhiều phương tiện và quy tắc bên ngoài ràng buộc, cho nên chúng ta khó lòng có đủ dũng khí để phá bỏ tất cả những cái đó đi, mà thành Phật được lắm.
13/08/2015(Xem: 6172)
Nói đến tu hành là nói đến tội phước, nếu không rõ tội phước tức là không rõ sự tu hành. Nếu người tu mà cứ lao mình trong tội lỗi, ấy là người tạo tội chớ không phải là người tu hành. Mọi sự an vui và đau khổ gốc từ tội phước mà sanh ra. Vì thế muốn thấu hiểu sự tu hành chúng ta phải thấu hiểu tội phước. Tội phước là những hành động thiết thực trong cuộc sống này, không phải là chuyện siêu huyền mờ ảo đâu đâu. Thế nên người tu hành phải thấu đáo phải phân rành vấn đề tội phước.
01/07/2015(Xem: 26893)
Trên bước đường tu học Phật, ít nhiều gì, Phật tử cũng thường hay gặp phải những thắc mắc, nghi vấn các vấn đề mà tự mình chưa có thể tìm ra giải đáp. Có những nghi vấn mang tính chất thuần túy kinh điển, nặng về phần nghiên cứu học thuật. Bên cạnh đó, cũng có những nghi vấn liên quan thiết thân trong đời sống sinh hoạt hằng ngày mà bất cứ người Phật tử nào cũng gặp phải trong khi tu học. Khởi đi từ yếu tố thiết thực đó và cũng muốn để trao đổi trong nhu cầu nghiên cứu, học hỏi Phật pháp, nhứt là đối với những người hằng quan tâm đến Phật giáo, suốt thời gian qua, trong các khóa tu học ngắn hay dài hạn, đều có đề ra mục Phật Pháp Vấn Đáp, để cho quý Phật tử nêu ra những nghi vấn thắc mắc. Và những nghi vấn thắc mắc nầy, đã được thầy Phước Thái gom góp lại để giải đáp thành 100 Câu Hỏi Phật Pháp. Năm 2010, 100 Câu Hỏi Phật Pháp tập 2 đã được ấn hành 1500 bản. Sách ấn hành chỉ trong khoảng thời gian rất ngắn thì số lượng sách đã không còn. Từ đó đến nay (2015), trải qua thời gian 5 năm
11/06/2015(Xem: 10283)
Tám Bài Kệ Chuyển Hóa Tâm và Phát Khởi Bồ Đề Tâm. Đức Đạt Lai Lạt Ma 14 giảng. Thích Hạnh Tấn dịch
04/06/2015(Xem: 6148)
Khi truyền dạy các pháp cho người học, nên lặp đi lặp lại, đến khi hành giả thật sự thông hiểu mới thôi, đó là cách tất yếu để các nội dung quan trọng được lãnh hội đầy đủ. Lời Phật là thiện ngữ, bởi Phật chỉ nói những lời thiện, như pháp; đồng thời mang nhiều ý nghĩa, có khả năng dẫn dắt nhân tâm đạt đến thực tướng.
26/05/2015(Xem: 6640)
Cuốn sách này được dịch nguyên văn từ tác phẩm Buddhism key stage one của Jing Yin Ken Hudson. Tôi dịch cuốn sách này và gửi đến Thư viện Hoa Sen với các lý do : - Đạo Phật được truyền bá rộng rãi cho mọi người. Đặc biệt là các em thiếu nhi. Những mầm non cho tương lai mai sau. Các em cần phải hiểu biết Đạo Phật. - Đây là món quà thành kính dâng lên Đức Phật, mong ngài ban phước lành cho mọi người; cho gia đình tôi; cho bạn bè; cho tất cả mọi người. Rất mong Thư viện Hoa Sen duyệt và chọn đăng để làm tài liệu cho các em thiếu nhi học tập.
26/05/2015(Xem: 8622)
Lúc thiếu thời, Đức Phật đã có những suy nghĩ giống thiếu nhi hôm nay. Các cháu tự hỏi tại sao bị sốt. Tự hỏi tại sao ông bà các cháu lại chết. Tại sao những ước mơ của các cháu không phải là sự thật. Các cháu tự hỏi về vẻ đẹp và hạnh phúc của cuộc đời. Bởi vì Đức Phật biết rõ suy nghĩ của trẻ em nói riêng và loài người nói chung, Ngài dạy chúng ta làm thế nào để sống hạnh phúc và có cuộc sống thanh bình. Đạo Phật không phải là niềm tin mù quán vào nơi xa lạ nào đó.
24/05/2015(Xem: 10137)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối. LDKG có liên hệ chặt chẽ với giáo lý duyên khởi nổi tiếng trong đạo Phật. Cho những ai chưa quen thuộc nhiều với những lời Phật dạy, lý duyên khởi là một chuỗi mười hai yếu tố nhân quả kết nối với nhau. Yếu tố cuối cùng trong chuỗi nhân quả này là khổ. Bởi vì là một chuỗi nhân quả, nó cho ta thấy khổ phát sinh như thế nào. Yếu tố thứ nhất của mười hai nhân duyên là vô minh – không có khả năng thấy được thế gian như nó là, và nó thật sự hoạt động như thế nào. Như thế, bắt đầu với vô minh, yếu tố này dẫn đến yếu tố sau, tiếp luôn cho đến khổ đau. Do vậy, lý duyên khởi chỉ cho ta thấy khổ đau chính là hậu quả của vô minh.
20/03/2015(Xem: 6991)
Đạo Phật là đạo từ bi vì thế là người con Phật, chúng ta phải tu tâm từ bi, trưởng dưỡng tâm từ bi trong cuộc sống mỗi ngày vì tâm từ là cội nguồn của mọi thiện nghiệp, là Phật tánh của chúng sanh. Điều này được Đức Phật thuyết trong Kinh Đại Bát Niết Bàn: “Nếu có người hỏi gì là căn bổn của tất cả pháp lành? Nên đáp: Chính là tâm từ… Này thiện nam tử (Ca Diếp Bồ Tát)! Tâm từ chính là Phật tánh của chúng sanh, Phật tánh như vậy từ lâu bị phiền não che đậy nên làm cho chúng sanh chẳng đặng nhìn thấy. Phật tánh chính là tâm từ, tâm từ chính là Như Lai [1, tr.520].
25/02/2015(Xem: 8471)
Bài viết sau đây được tổng hợp từ kinh sách và từ các bài giảng của chư tăng ni, có mục đích phác họa một bức tranh khái quát với tính liệt kê về năm thừa của Phật giáo giới thiệu đến người sơ cơ học Phật hoặc muốn tìm hiểu về đạo Phật. ‘Thừa’ là sự nương tựa vào, được tượng hình như một cổ xe để giúp chúng ta di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Có cổ xe nhỏ, sức yếu chỉ đưa chúng ta đi gần, vòng quanh ở một nơi nào đó, và cũng có cổ xe lớn, có sức mạnh hơn nên có thể đưa chúng ta đi xa hơn, đến những nơi chốn đẹp đẽ hơn, an lạc hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567