Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời Phật Dạy Tránh xa hai cực đoan

17/04/201706:43(Xem: 5749)
Lời Phật Dạy Tránh xa hai cực đoan




phat-ngoc_111
LỜI PHẬT DẠY
TRÁNH XA HAI CỰC ĐOAN


Thân và tâm là hai yếu tố quan trọng luôn liên hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau trong một cơ thể con người. Nếu ta luôn tỉnh giác hằng ngày, ý thức ba việc thường chớ đủ là ăn mặc, ngủ; hay nói cho đúng hơn, ta phải muốn ít, biết đủ, chỉ ăn uống điều độ vừa đủ để nuôi thân, làm việc, vận động hợp lý, ngủ nghỉ cho có chừng mực, nên thân khỏe mạnh, tinh thần sáng suốt, nhờ vậy mình dễ dàng buông xả mọi dính mắc trong cuộc đời mà thành tựu đạo pháp.

    Khi Phật còn tại thế, Ngài thường dạy các đệ tử như sau:

    _ Này các Tỳ kheo, có hai cực đoan mà người xuất gia cần phải tránh xa:

    + Một là đắm say các dục vọng, tham muốn thấp hèn, thô bỉ, có tính cách phàm phu tục tử, không dẫn đến đức hạnh Thánh nhân, không liên hệ đến mục đích tu tập, giác ngộ, giải thoát.

   + Hai là tự mình ép xác, khổ hạnh quá mức, làm thân đau đớn, mệt mỏi, tâm không được thanh tịnh, sáng suốt, không xứng đáng là bậc hiền Thánh, không liên hệ đến mục đích tu tập, giác ngộ, giải thoát.

   _ Này các Tỳ kheo, ai tu theo đạo giác ngộ, giải thoát, cần phải có chánh trí, tránh xa hai cực đoan này, biết quay trở lại pháp tu trung đạo, làm cho thân tâm hài hòa để thành tựu đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Giác.

   _ Này các Tỳ kheo, chúng ta hãy theo con đường Trung đạo do Như Lai tu tập, chứng ngộ, có khả năng chịu đựng sự khắc nghiệt trong mọi hoàn cảnh, có được tuệ giác thấu rõ mọi sự vật dẫn đến bình an, hạnh phúc, Niết Bàn và giải thoát.

   _ Này các Tỳ kheo, con đường Trung đạo, chính là 8 phương pháp nhiệm mầu, chánh đáng: Quan niệm chân chính, tư duy chân chính, lời nói chân chính, hành vi chân chính, nghề nghiệp chân chính, nỗ lực chân chính, ý niệm chân chính và thiền định chân chính. Đây là con đường trung đạo, do Như Lai thấy biết đúng như thật nhờ biết buông xả, nên phát sinh trí tuệ, đưa đến an lạc, hạnh phúc, thể nhập Niết Bàn, giải thoát.

     Pháp thoại này Như Lai Thế Tôn nói khi đến vườn Nai để độ năm anh em Kiều Trần Như. Đức Phật khẳng định con đường trung đạo là con đường vượt lên trên hai cực đoan, hưởng thụ dục lạc và khổ hạnh ép xác.

    Như vậy, sự hưởng thụ, đắm say theo các cảm xúc khoái lạc giác quan mà đa số nhiều người cho đó là hạnh phúc cao nhất trần đời, những tham vọng trần tục, hay lối tu chịu cực khổ quá mức, đều không phải là chánh đạo, không liên hệ đến mục đích giải thoát.

    Hưởng thụ khoái lạc giác quan là lối sống của đức Phật khi còn là hoàng thái tử, Ngài đâu có thiếu thốn thứ gì. Tại sao Phật vẫn từ bỏ hết tất cả, để rồi cuối cùng Ngài được tất cả. Suốt 49 năm giáo hóa độ sinh, Phật chỉ có ba y một bình bát, sống đời rày đây mai đó, tùy bệnh cho thuốc, giúp đỡ mọi người.

    Với lối tu khổ hạnh ép xác, Phật đã từng khổ hạnh như thế suốt sáu năm dài đăng đẳng; cuối cùng, thân thể kiệt quệ, dẫn đến ngất xỉu, may nhờ có cô thôn nữ chăn bò giúp cho bát sữa, nên Ngài hồi tỉnh và chiêm nghiệm lại sự tu tập trong những năm qua; cuối cùng, Phật đã tìm ra con đường trung đạo. Đây cũng là kim chỉ nam tu tập cho tất cả những người con Phật, nhất là hàng xuất gia.

   Cả hai cực đoan đều thấp kém, hạ liệt, đắm say trong các dục và tự mình hành xác khổ đau, đều không dẫn đến an lạc, hạnh phúc và giải thoát.

    Con đường hưởng thụ dục lạc thế gian như chúng ta đã biết, trong cái vui đó luôn đi đôi với mầm móng khổ đau, nhưng lại vô thường, tạm bợ, mong manh. Vì sao? Vì thương yêu mà xa lìa khổ, oán ghét gặp nhau khổ, mong cầu không được khổ và cuối cùng là chết khổ. Con đường khổ hạnh ép xác làm cho thân thể bại hoại, suy yếu, làm hành giả không đủ sáng suốt, minh mẫn, để hướng tâm vào mục đích giác ngộ, giải thoát.

    Chính đức Phật đã trải qua hai lối sống đó, Ngài đã thật sự trải nghiệm trong tu tập chứ không phải lý thuyết suông do suy luận. Nhờ vậy, sau khi chứng ngộ, Phật đến vườn Nai để chỉ cho năm người bạn đồng tu khi xưa.

   Từ xa, năm người này thấy Phật đang đi đến, họ nói với nhau rằng, “sa môn Cồ Đàm đã tu theo lối hưởng thụ rồi, chúng ta không nên tiếp”. Tuy đã thỏa thuận như thế, nhưng khi Phật đến, người thì lấy nước rửa chân, người thì mời ngồi và tất cả đều cung kính vái chào; và Phật đã nói, “con đường trung đạo là xa lìa hai cực đoan, hưởng thụ và ép xác”. Nhờ vậy, năm anh em đồng tu khi xưa chứng quả giác ngộ, giải thoát.

    Như vậy, trong chừng mực nào đó, con đường trung đạo chính là con đường thiết lập lại quân bình, làm cho thân tâm được an ổn, hài hòa, và biết cách hướng tâm về mục đích. Muốn được như vậy, ta phải có cái nhìn sáng suốt, nghĩa là muốn ít, biết đủ, ăn vừa đủ để nuôi cơ thể, nhờ vậy thân mạnh khỏe, tâm sáng suốt, nên dễ dàng tu tập để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, hạnh phúc.

   Trong bối cảnh ngày nay, con người văn minh, tiến bộ vượt bực, nền kinh tế xã hội phát triển vật chất dồi dào, nhờ đó mà chùa to Phật lớn được xây dựng theo kiến trúc hiện đại. Đời sống của người xuất gia được nâng cao với nhiều tiện nghi vật chất, phòng cao cửa kính, sang trọng, bề thế và nhiều nhu cầu xa hoa khác. Chúng ta có thể xem đó là lối sống trung đạo hay không? Cho nên, ta cần phải tìm hiểu lời Phật dạy cho rõ ràng, chín chắn, để biết cách áp dụng sao cho phù hợp với con đường trung đạo.

   Quan trọng hơn hết, đức Phật đã dạy, tinh thần trung đạo của Ngài là thấy biết chân chính, tư duy chân chính, lời nói chân chính, hành vi chân chính, nghề nghiệp chân chính, nỗ lực chân chính, ý niệm chân chính và thiền định chân chính. Như vậy, ta tránh xa hai cực đoan chính là dẹp bớt những trở ngại có tính cách thái quá, sang trọng, vì nhiều tiện nghi vật chất quá thì khó tu. Nói chung, ta phải biết tùy thời, tuỳ duyên không nên quá cố chấp, để rơi vào trạng thái tham đắm, dính mắc, bằng cách muốn ít, biết đủ.

    Cốt tủy của con đường này là thành tựu chánh kiến, thấu triệt được nguyên lý duyên khởi, vô thường, vô ngã, tất cả thân, tâm và cảnh đều do duyên hợp không thật có. Do đó, ta không chấp ngã, nên không chiếm hữu mà vượt thoát mọi sự ràng buộc của tham-sân-si, nhờ vậy không bị dính mắc vào cái ta và của ta, nên chứng ngộ Niết Bàn, giải thoát.

    Ở cực đoan thứ nhất, lúc còn ở trong cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, Thái tử Sĩ Đạt Ta đã hưởng thụ đầy đủ mọi lạc thú trên trần đời này, với danh vọng, quyền uy tột đỉnh nhất trong thiên hạ. Với con mắt bình thường của chúng ta, ai cũng ước mơ và mong muốn để được tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ ấm, mặc sang, ở và làm việc được đầy đủ tiện nghi, vật chất.

    Nhưng đối với Phật khi xưa, Ngài thấy những thứ đó là cạm bẫy cuộc đời, chôn vùi con người vào sự ràng buộc, bởi tham đắm, luyến ái vợ con, còn hơn gông cùm, ngục tối, vì khi hết hạn thì có ngày ra khỏi, còn hưởng thụ khoái lạc giác quan, luyến ái vợ con, coi như bị giam cầm mãi mãi từ đời này sang kiếp nọ không có ngày thôi dứt.

    Ở cực đoan thứ nhất, đời sống lợi dưỡng và sự cám dỗ của ngũ dục như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ nhiều, thường làm chúng ta bám víu, chấp vào tự ngã là ta và của ta, nên khởi lên tham muốn chiếm hữu về mình. Cho nên, con người càng trở nên nhu nhược, yếu đuối, thấp hèn hơn, và cuối cùng sẽ không có thời gian, cơ hội để tu tập mà thể nhập con người tâm linh sáng suốt.

    Ở cực đoan thứ hai, Ngài cùng tu khổ hạnh ép xác với năm anh em kiều Trần Như ròng rã suốt sáu năm trường, đến độ thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, tinh thần u ám, tâm tư không được minh mẫn, sáng suốt, nên không tìm ra lối thoát.

    Thân và tâm là hai yếu tố quan trọng luôn liên hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau trong một cơ thể con người. Nếu ta luôn tỉnh giác hằng ngày, ý thức ba việc thường chớ đủ là ăn mặc, ngủ; hay nói cho đúng hơn, ta phải muốn ít, biết đủ, chỉ ăn uống điều độ vừa đủ để nuôi thân, làm việc, vận động hợp lý, ngủ nghỉ cho có chừng mực, nên thân khỏe mạnh, tinh thần sáng suốt, nhờ vậy mình dễ dàng buông xả mọi dính mắc trong cuộc đời mà thành tựu đạo pháp.

   Nói tóm lại, đức Phật khi xưa đã trải qua hai cực đoan, hưởng thụ và hành xác, để rồi cuối cùng, dưới sự quyết tâm dũng mãnh của bản thân, Ngài đã vượt khỏi hai lối sống cực đoan mà thành tựu con đường trung đạo.  

   Bát chánh đạo là tám con đường tâm linh mầu nhiệm chân chính. Tám nguyên tắc mầu nhiệm ấy có liên hệ nhân quả rất mật thiết với nhau như sau:

1.  Chánh kiến: là hiểu biết đúng đắn, hay thấy biết đúng như thật.

2.  Chánh tư duy:  Suy nghĩ, xem xét, chiêm nghiệm đúng.

3.  Chánh ngữ:  Nói lời chân thật, đúng lý lẽ.

4.  Chánh nghiệp:  Hành động chân chính.

5.  Chánh mạng:  Làm việc mưu sinh chân chính.

6.  Chánh tinh tấn:  Cần mẫn và nỗ lực chân chính.

7.  Chánh niệm:  Ý thức chân chính nhờ sự quán chiếu, soi rọi.

8.  Chánh định: kiên định tập trung tâm tư vào con đường chân chính, không để bất cứ điều gì lay chuyển, làm thoái chí, phân tâm.

Ý kiến bạn đọc
10/10/201704:58
Khách
tuyệt và chuẩn.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/12/2013(Xem: 6514)
Một đệ tử của tôi kể rằng có một nữ doanh nhân thành đạt rất quan tâm đến các giới luật đạo đức theo Phật giáo. Một lần bà tìm được một mối kinh doanh mới, có một số tiệm rượu đang rao bán. Bà biết nếu nhân cơ hội này mua các tiệm ấy, thì bà có thể được nhiều lợi lộc. Tuy nhiên có điều gì đó đã ngăn cản bà lại.
24/12/2013(Xem: 5243)
Có người cần một bảng liệt kê các giới luật để đảm bảo rằng mình hành động một cách đạo đức, chân thật. Người khác thì cần giới luật để cảm thấy chắc chắn rằng họ đã đạt được mục đích tâm linh, ở cõi trời hay được giác ngộ. Đức Phật cũng đã chỉ bày cho ta những cách hành xử để tránh khỏi đau khổ, nhưng hành động đạo đức chân chính không chỉ nằm trong các bảng điều lệ giới luật nào.
24/12/2013(Xem: 13116)
Trong một buổi giảng trước khóa lễ Trung Phong Tam Thời Hệ Niệm tổ chức tại quận Cam (Orange County, Los Angeles) ngày 22 tháng 10-2012, pháp sư Trang Trí đã giới thiệu cuốn sách Nhìn Thấu Là Trí Huệ Chân Thật. Nói về nhân duyên biên soạn cuốn sách ấy, pháp sư cho biết: Trước kia, Ngài đã thấy rất nhiều người niệm Phật vô cùng tinh tấn nhưng tới phút cuối cùng không buông xuống nổi,
23/12/2013(Xem: 9846)
Tôi có một câu chuyện muốn nói cho quý vị nghe. Chuyện này cũng với tinh thần chỉ Ông chủ chứ không có gì lạ. Một sáng, khi xả thiền ra tôi có tuyên bố với một số người rằng: "Tôi quả thực là con ngỗng chúa biết uống sữa, lọc nước chừa lại". Câu nói đó quý vị nghe lạ đời phải không? Ðây là câu nói của các Thiền sư Trung Hoa thời xưa. Lúc trước tôi học tôi tu, đọc câu đó tôi cũng biết
23/12/2013(Xem: 4247)
Chúng tôi rất vui mừng hiện diện nơi đây một lần nữa tại Xalapa, và chủ đề mà tôi đã từng được yêu cầu để nói tối nay là nghiệp báo. Dĩ nhiên, khi chúng ta nghiên cứu về một chủ đề nào đấy trong Phật giáo, điều quan trọng để có một ý tưởng nào đấy về việc tại sao chúng ta muốn tìm hiểu về nó, điều quan trọng của nó là gì, và tại sao nó phù hợp trong toàn bộ phạm vi của Phật giáo. Một cách căn bản Đức Phật nói về kinh nghiệm của mỗi người,
23/12/2013(Xem: 5858)
Lozang Ngodrub dịch, Tâm Ưu Đàm hiệu đính Có bốn cách nghiệp sẽ chín trong những kiếp tương lai: Nghiệp Chín Hoàn Toàn: là loại tái sanh mà tâm thức ta sẽ nhận lãnh khi nó tách rời thân thể ta trong giờ phút lâm chung. Hành Động Tương Đương với Nguyên Nhân: tất cả những lời nói, ý nghĩ và hành động ta tạo ra trong bất cứ kiếp sống nào là do những thói quen trong quá khứ.
21/12/2013(Xem: 7148)
Đây là danh từ Phật học nên không thể tìm thấy trong những từ điển thông thường thuộc các ngành khoa học tự nhiên hay cũng không thể tìm thấy trong các từ điển thuộc về khoa học xã hội, Kinh tế , văn học, triết học, tôn giáo học… Trong tự điển tiếng Việt của Viện Khoa Học Xã Hội và Viện Ngôn Ngữ Học Việt Nam vẫn không tìm thấy từ nầy.
18/12/2013(Xem: 14176)
Dân giàu nước mạnh xã hội văn minh phú cường khó có được, nếu người dân có nhiều bệnh tật, ngân sách chi tiêu y tế quá cao, đội ngũ sản xuất ốm yếu, học sinh sinh viên gầy, trí thông minh chưa đạt, đạo đức xã hội xuống cấp. Mà thiền, theo sự nghiên cứu của các khoa học gia và y giới quốc tế trong đó có người Việt chúng ta đều xác nhận, thiền có khả năng giúp cải tiến phần lớn các bất cập nêu trên. Đó là trọng tâm của bài viết gần đây “Thiền và canh tân đất nước”.
18/12/2013(Xem: 22308)
Nhân loại càng văn minh, thì con người càng bị cuốn hút vào các guồng máy do chính mình tạo ra. Từ đó, những khủng hoảng nầy chồng chất lên những khủng hoảng khác, tạo đủ thứ bệnh, và nhiều trường hợp, số phận, đành giao cho tử thần quyết định.
17/12/2013(Xem: 18241)
Thành thật luận 成實論 (Satyasiddhi-śāstra) cũng gọi Tattvasiddhi Śāstra 16 quyển, hoặc 20 quyển, do Ha-lê-bạt-ma (Harivarman) tạo luận, Cưu-ma-la-thập (Kumārạiva) dịch, Đàm Quỹ ghi chép, Đàm Ảnh chỉnh lý, trong khoảng đời Dao Tần, niên hiệu Hoằng Thùy thứ 13 đến 14 (411 ~ 412), thâu lục trong Đại Chính, Đại Tạng Kinh, Tập số 32, kinh số 1647.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]