Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Làm chủ tâm mình

20/06/201407:09(Xem: 4522)
Làm chủ tâm mình

Buddha_23
LÀM CHỦ TÂM MÌNH


Đức Hạnh




Trong bài “Sức Mạnh Của Tâm” kỳ trước ,có nói đến Tâm là chủ tể.Đích thực,con người trên đời này làm nên vô số việc tốt,xấu,học hành,nên danh,nên nghiệp ,mưu sinh sống đời hạnh phúc,khổ đau,cho đến tu tập phật pháp được giác ngộ thành Phật ,thành Thánh, Nhân bản,v.v…đều do tâm chỉ đạo (nhất thiết duy tâm tạo).Qua đây cho ta thấy rằng;tâm là con người thật của con người,(động vật có linh giác,giác hồn thật siêu việt hơn tất cả các loài hữu tình khác trên trái đất này). Phi tâm ra,bản thân con người,chỉ là một khối thịt bất động.

Mặc dù tâm là con người thật của con người nhưng, tâm phải được rèn luyện văn chương Nhân bản,đạo lý Thánh hiền, kinh văn Phật học,thì mới có thể thành con người thật có trí tuệ. Do có trí tuệ, tâm luôn chánh trực,chánh đạo,là nền tảng thành công tốt đẹp mọi việc đời,đạo.Việc đời, là làm đúng theo công thức,kỹ thuật,họa đồ (plan) trong xí nghiệp,nghành nghề mưu sinh đúng theo pháp luật…Việc Phật, làm đúng theo giới luật Phật và chánh đạo,(8 con đường chánh).Tất cả do tâm chơn chánh nói chung,có mặt cùng lúc với thân làm các việc đời,đạo. Giống như trong một cơ xưỡng,luôn có ông chủ bên cạnh công nhân.Thì các công nhân ai cũng siêng năng làm việc đúng kỹ thuật,phẩm chất.Nếu không nói rằng;tâm ở lãnh vực này,như một ông thầy dạy nghề, hướng dẫn cho học viên thực tập không sai kỹ thuật.Đúng như ngạn ngữ VN “không thầy đố mầy làm nên”.Đúng như vậy,tâm có đạo lý Phật, Thánh,Nhân bản luôn làm chủ,chỉ đạo bản thân trong lúc hành động các việc được đúng cách,chính xác công thức,phẩm lượng…Tức là không sai nguyên lý cơ bản.Ngược lại bị sai,do tâm lang thang bên ngoài công việc, không làm chủ tâm,bởi thiếu rèn luyện những đạo lý trên.

Ý nghĩa làm chủ tâm, là đem tâm tư duy, nhận thức nhiều lần về việc gì ngoài đời,điều chi trong đạo,để thấy kết quả tốt,xấu trước khi làm,đúng như câu cách ngôn” Phàm làm việc gì,phải nghĩ đến kết quả của nó”.Sau đó xét thấy kết quả xấu,là chỉ lợi mình,hại người.Nếu ra tay hành động,bị phạm luật Pháp,giới luật phật.Với người, là gây tác hại thân mạng người khác, khổ đau cho bản thân,gia đình,bằng hữu chia rẽ,người trí chê cười,lợi nhất thời,nguy hại muôn đời bị nhân quả báo ứng ngàn đời mai sau.Cuối cùng làm chủ được tâm,không làm những việc phi pháp đó.Với những việc hợp pháp,không từ nan,ra tay quyết tâm làm cho bằng được nhưng,cũng phải làm chủ tâm, để chỉ đạo cho thân hành động,thì mọi việc mới được có kết quả tốt,đúng phẩm chất,kỹ thuật,công thức.

Vấn đề làm chủ tâm ở các ciệc đời,đạo để hành động đúng chánh đạo,kỹ thuật,chính xác phẩm chất,v.v…,là do tâm an trú ở trạng thái thanh tịnh,không bị lây động trước mọi cảnh giới,được phái Thiền nói đến,đưa vào công án,là đưa tâm sống trong tỉnh giác, tỉnh thức trong mọi môi trường,hoàn cảnh thực tại một cách thường trực(thường hằng thanh tịnh),thì mọi việc mới có kết quả trọn vẹn đúng cách,đúng đạo.Điều đó, ta thường nghe quý Thiền Sư căn dặn các Thiền sinh: lái xe phải biết mình lái xe,đi vững chải biết mình đang bước chân trên đất,thở vô ta biết ta đang thở vô,thở ra ta biết ta đang thở ra, nấu cơm,quét sân,đóng cửa chùa,đánh máy,chạy máy tiện,máy cưa,dệt vải,v.v… phải nhớ làm chủ tâm(tỉnh thức) vào những công việc ấy.Không thể một việc mà hai tâm có mặt cùng lúc.Nói rõ hơn,chỉ có một tâm tỉnh thức trong từng mỗi việc đang làm.Tâm đó là con người thật của ta suốt cả cuộc đời.Nếu để hai tâm con Vượn,con Ngựa có mặt trong lúc làm mọi việc, thì nhất định công việc bị đổ vỡ,không thành,tâm hồn bị điên đảo, tâm đó không phải con người thật của ta.

Phái Thiền cẩn thận cho đến nỗi, có lời khuyến cáo những hành giả đi tìm con đường giải thoát trong đạo Phật qua sự tu tập các pháp môn Thiền, Tịnh, Mật…,luôn làm chủ tâm mình,là không nên đặt tâm vào mọi cảnh giới,gọi là không trụ tâm.Tức là đối cảnh vô tâm(ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm),là nền tảng ngăn chận, nhận chìm những tạp niệm vốn có từ vô thủy,đang nằm im trong tạng thức,sẵn sàng vươn lên quấy động,làm cho tâm hành giả mất tỉnh thức,bị rối loạn,do không làm chủ tâm an trú chánh niệm,tỉnh thức,vì để tâm bị trôi lăn trên dòng vọng niệm,thì nhất định các việc không bao giờ được thành tựu.

Thiền chủ trương hành giả tu thiền,chỉ có một niệm,là niệm tỉnh thức,không có niệm khác xen kẽ vào,dù có đối cảnh nhưng,tâm không sanh tình.Mặc dù hành giả tu thiền đang có mặt giữa trường đời đầy ô trược,là môi trường thực tập có hiệu quả nhất,phải thấy vô số cảnh và người,là điều không thể tránh khỏi.Nhưng mắt thấy cứ thấy,thấy bởi tánh thấy của mắt.Chẵng lẽ nhắm mắt.Nghe âm thanh,là cứ nghe bởi tánh nghe của tai,chẵng lẽ bịt tai.Hai cái thức Mắt và Tai này,nói chung 5 thức trước (mắt,tai, mũi,miệng và thân) không liên đới với tâm,gọi là độc câu ý thức trên vận hành làm chủ tâm trong các việc đạo,đời.

Với hành giả tu thiền và kể cả người tu tịnh độ,hay tu quán niệm thực tướng các pháp là vô ngã, để đạt tâm vô ngã ngay giữa dòng đời.Tất cả đều làm chủ tâm,là không đem tâm phân tích,khái niệm,nhận thức mọi cảnh khi nhìn thấy,mọi âm thanh khi nghe đến.Đối trước mọi người quen hay lạ, khi bắt gặp ở bất cứ nơi đâu,ngoài lời chào hỏi thông lệ ra,liền giữ tâm tỉnh thức,không khởi tâm nói thầm(khen,chê )dán nhãn đối tượng thế này,thế kia.Bốn phái tu Thiền, Tịnh,Mật và Quán niệm, rất khắc khe đối cảnh mà sanh tình như vậy.Nếu sanh tình qua đối cảnh,đối tượng,dù là tình cảm, bốn hành giả nói trên,sẽ bị đánh mất Chơn tâm.

Hành giả 4 phái ấy,trên bước đường hành đạo,tất cả đều có chung “Chơn tâm thanh tịnh tuyệt đối”,như đã nói, sau khi đã học qua lý thuyết của bốn Pháp Thiền,Tịnh độ, Vô Ngã. Nếu không nói rằng; Lý bao giờ cũng làm sáng tỏ Đạo.Cho nên các hành giả học qua lý thuyết bốn pháp trên,đã được thấy các ĐẠO : Tâm không,Vô ngã,Nhất tâm bất loạn,từ lâu rồi do qua quá trình học,không hạn định thời gian lâu mau,nhiều bài hay ít.Miễn sao đủ, để thấy Đạo mà hành,cho nên đã thấy đạo rồi,thì hành theo đạo.Hành đạo là sống đúng theo điều mình đã hiểu,đã ngộ. Qua đây cho ta thấy Phật Học,không phải chỉ là cái Đạo để học,mà còn là cái Đạo để sống,sống trong cái tâm thanh tịnh, thường hằng bình đẳng nhất nguyên suốt cuộc đời hành đạo,cho đến khi đạt đạo.Ba thứ ngộ Đạo,hành Đạo và đạt Đạo gắn liền nhau trong tâm hành giả.

Do vậy, các hành giả luôn làm chủ tâm trong lúc thực hành các đạo lý ấy ngay giữa trường đời,chứ không còn đem tâm phân tích,khái niệm nữa.Nếu còn,tức là chưa thấy Đạo Vô ngã giải thoát.Vì thế,Thiền chủ trương Bất lập văn tự là như vậy(sự hiểu của người viết).Có nghĩa là các hành giả học Phật qua lý thuyết trước,rồi mới được thấy Đạo,thực hành theo Đạo để được giác ngộ chứng Đạo.Giống như học sinh làm bài toán quỷ tích,phải dựa trên giả thuyết,vẽ ra sẽ thấy quỷ tích chạy trên hình gì, chữ nhật,tam giác… Vì thế,để kiểm tra thiền sinh mình đã liễu đạo hay chưa, các vị Đạo sư hỏi lý thuyết.Thiền sinh nói liền,không suy nghĩ, phân vân,dù một giây cũng không được.Vì chưa ngộ đạo,không thể hành đạo được.

Hành giả học Phật,cho mục đích tìm cầu con đường giải thoát,không thể không làm chủ tâm mình trong lúc hành Đạo.Làm chủ tâm trên bước đường hành Đạo,giống như người chăn trâu đi tìm con trâu bị mất.Đi tìm trâu phải theo đúng dấu chân trâu.Dù con trâu bị mất là trâu Già, Tơ hay Nghé,chân đều giống nhau,chỉ khác lớn hay nhỏ,cho nên nó lên dốc,xuống trũng,vòng qua nương dâu…người đi tìm vẫn thấy dấu chân nó, không lẫn lộn với dấu chân Hưu, Nai, Bò,cho đến khi nào gặp được,dắt trâu về.Qua đây,cho ta thấy rằng;tất cả pháp môn tu của Phật,đều cùng một vị giải thoát(đạo giải thoát).Dù cho Pháp môn Thiền,Tịnh Mật, Quán niệm ,Quán chiếu,v.v…,gọi là Pháp môn nhỏ,pháp môn lớn.Tất cả đều có cùng đạo giải thoát,như các giống gạo Tẻ Nàng hương,Ba trăng… Nếp hạt tròn,hạt dài…,nấu lên sẽ thành cơm,một hạt cũng thành cơm.Nói rõ hơn,tất cả pháp môn tu của Phật,lớn,nhỏ,khó,dễ, đều cùng một vị giải thoát,đó là Chơn tâm, vô ngã.Điều này,được Phật đem lời căn dặn hàng Phật tử tại gia: “làm các việc thiện,từ việc nhỏ,đến việc lớn,đều phải xây dựng trên tinh thần Vô Ngã”.Nếu không nói rằng;tổng thể nền đạo lý phật giáo,là học thuyết Vô ngã.

Hành giả đã liễu đạo thanh tịnh vô ngã ở pháp môn mình đã chọn, hợp với căn cơ mình rồi,cứ tiếp tục làm chủ tâm trong lúc hành Đạo.Để cho tâm thêm được an ổn,trong lúc tri hành,là đóng 5 cửa trước lại,lái tâm mình đi trên con đường trung đạo,không thị phi,tranh cãi,nói thầm,dán nhãn đối tượng (dù có nghe âm thanh,có thấy cảnh),không cực đoan phía này,phía kia…Luôn tri hành theo lời chư Phật dạy:”Không làm các việc ác,nguyện làm các việc lành,giữ tâm hồn luôn thanh tịnh”. (chưa tu học, đi dọc đi ngang.Học rồi thấy đạo, thẳng đường mà đi).

Làm chủ tâm,có hai nền tảng.Một-Phật tánh vươn lên.Hai-Liễu đạo.Về liễu đạo,như đã được nói trên.Chỉ riêng đề mục Phật tánh vươn lên,rất hiếm thấy.Hiếm chứ không phải là không có.Điều đó được chứng minh qua hai câu chuyện sau đây:

Con người trên đời này,bất luận chủng tộc,quốc độ nào,một khi Phật tánh vươn lên như hoa sen ra khỏi mặt nước,nở cánh, ươm nhụy, kết hạt.Là lúc tự quây về ba ngôi báu Phật,Pháp,Tăng trong tâm mình ở góc 180 độ.Rồi tự hành Phật đạo ra giữa trường đời,gọi là người bộ hành cô đơn(kinh sống một mình).Có nghĩa là đi giữa biển đời đầy muôn sắc tục lụy thế gian,mà không hề bị nhiễm trần,do làm chủ Bồ Đề tâm mình vốn có,nói như lời Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni:”Ta sanh ra trong đười,lớn lên giữa đời,ta chinh phục đời,không bị đời làm ô nhiễm.Như vậy ta là Phật”.

I--Trên quê hương Việt nam, có một thanh niên giống như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni,đã tự mình quây về Phật,Pháp,Tăng trong tâm ở góc 180 độ.Rồi tự mình hành “Phật đạo” ra giữa trường đời đầy hình bóng giặc Pháp trên đất mẹ giữa thế kỷ 19,mà vẫn an nhiên tiến bước ,làm chủ Bồ Đề tâm mình trên đường hành đạo,một mình với cái mõ nhỏ và cuốn kinh Phổ Môn,không bổn sư, đạo hiệu,không chùa chiền, bổn đạo.Đó là vị Tổ đầu tiên chùa Trà Cú Phan Thiết.

Theo tiểu sử để lại,Vị Tổ đầu tiên tổ đình Trà Cú,tên là Trần Hữu Đức,người Phú Yên,ở tuổi thanh niên thời ấy,tự mình xuất gia,cạo tóc,mặc áo tràng nâu,với cuốn kinh Phổ Môn chữ Hán và cái mõ nhỏ canh cánh bên mình,là hành trang tu tập ở nương dâu,rừng núi tại quê nhà.Một ngày nọ,Ngài Hữu Đức tự đến ga xe lửa Tuy Hòa,đáp tàu xuyên Nam.Xuống ga Mường Mán,đi bộ mất mấy ngày mới đến địa phận Phan Thiết.Nơi đây, Ngài gặp quốc lộ 1,rồi đi về hướng tây bắc,gặp xóm Bào Trâm,Ngài rẽ vô rừng,nghỉ lại dưới chân núi Trà Cú vài hôm.Sau đó Ngài leo núi,được đến đỉnh rồi.Ngài vào thiền định,tụng kinh,niệm Phật trong hang đọng ở hướng đông nam của mặt núi,ngày qua ngày.Thỉnh thoảng Ngài ra hang để độ ngọ bằng rong rêu ở con suối cạn và ăn lá cây,uống nước suối.Lâu lắm mới được loài khỉ cúng cho vài trái cây rừng.

Một ngày nọ,có con Bạch Hổ đến nằm trước hang.Biết có thú dữ đến xin quây về Tam Bảo,Ngài bước ra, Bạch Hổ ngồi dậy với nét mặt hiền lành,đứng yên,được Ngài xoa đầu,là cách làm lễ quy y Tam bảo cho nó.

Tưởng rằng chỉ có hai thầy trò thôi.Ai ngờ có một thanh niên ở Phan Thiết tên Vĩnh Thọ,nghe trên núi Trà Cú có vị sư tu trong hang sâu và con bạch hổ tu ngoài hang,Liền lên đó đốn gỗ,để xem có thật vậy, hay không.Được thấy tận mắt có bạch hổ ngồi trước cửa hang ,thật là hiền,là hình ảnh chứng minh đang có vị Tăng trong hang,nên chi người thanh niên Vĩnh Thọ ngồi bên con cọp,để chờ gặp vị sư.Chẳng bao lâu,Ngài Hữu Đức từ hang ra,thanh niên Vĩnh Thọ quỳ xuống đãnh lễ, nói lời xin xuất gia liền khi đó với đạo hiệu bằng tên Vĩnh Thọ của mình,giống như thầy Hữu Đức lấy tên Ngài làm đạo hiệu khi tự xuất gia.Bởi vì Ngài Hữu Đức chỉ gật đầu,tức bằng lòng không lời kinh và cũng không lễ lạc truyền giới nào cho Thầy Thọ cả.Thầy Vĩnh Thọ phát nguyện ở đó,rồi tự cất am nhỏ để tu niệm và cho bạch hổ ở chung.Còn Ngài Hữu Đức vẫn tu trong hang như ngày nào.Thầy Vĩnh Thọ đi tìm những hạt giống ngũ cốc,rồi trồng trọt tại núi gần con suối để độ ngọ cho baThầy trò.Vài năm sau,một ngày nọ, Thầy Hữu Đức báo cho Thầy Vĩnh Thọ biết sẽ viên tịch.Đúng thật,Ngài Hữu Đức đã về cõi Phật.Sau khi chôn cất thầy mình xong,không thấy bạch hổ đâu cả.Thầy Thọ ra ngoài mộ,thấy bạch hổ nằm bên cạnh mộ, với nét mặt buồn thiu.Qua ba ngày bạch hổ chết theo Thầy mình.

Theo lời HT Thích Quảng Thanh,trụ trì chùa Bảo Quang ở quận CAM cho biết: Tổ đình Trà Cú có ba vị Tổ.Tổ thứ nhất,là Ngài Trần Hữu Đức.Tổ thứ hai,là Ngài Vĩnh Thọ.Tổ thứ ba.là Ngài Hòa Thượng Thích Long Đoàn. Tổ Vĩnh Thọ,là bổn sư của HT Quảng Liên.HT Quảng Liên là bổn sư của HT Chơn Thành ở chùa Liên Hoa.

II--Trong thời Phật còn tại thế,có một chàng thanh niên,vóc dáng khôi ngô,tuấn tú,đường đường một đấng trai làng ở phía nam thành Xá Vệ(Savathi) tên là PUKKUSATI.Anh Pukkusati,tự nhiên cạo bỏ râu,tóc,phục sức Cà Sa màu vàng,y hệt hình tướng Thầy Tỳ Kheo Tăng,đệ tử xuất gia của Phật.Từ đó chàng luôn làm chủ Bồ Đề tâm đang hiện hữu trong lòng,không khi nào vơi qua thiền tọa,thiền hành,khất thực.

Một ngày nọ,Thầy Tỳ Kheo Pukkusati đi hành thiền ra khỏi làng,khi trở về,gặp lúc hoàng hôn thay áo tím,không thể về làng trong đêm,Thầy ghé vào trại làm đồ gốm,xin ông chủ trại nghỉ lại. Sau khi Thầy Pukkusati vào phòng trước vài phút, thì ông chủ trại đưa Phật vô để nghỉ qua đêm.Thế là,Phật và Thầy Pukkusati cùng nghỉ nơi căn phòng rộng.Đức Phật và Thầy Pukkusati hai người xa lạ.Do vậy Đức Phật nhìn Thày Pukkusati,một thanh niên trai trẻ,khôi ngô,tuấn tú.Đức Phật bèn hỏi:”Này ông bạn Tỳ Kheo,vì ai mà anh bỏ gia đình,xuất gia tu hành? Thầy anh là ai?Anh thích giáo lý của ai?

Thầy Pukkusati thưa: -“Tôi vì nhà tu tên Gautama,dòng họ Sakya đã bỏ gia đình đi xuất gia tu hành,đã tìm ra đạo giải thoát,cho nên tôi đi xuất gia tu hành, giống như nhà tu Gautama.Chính ông ấy là Thầy tôi.Tôi thích giáo lý của ổng lắm!”

--“Ông ấy bây giờ đang ở đâu?”

--“Đang ở phía bắc thành Savathi.”

--“Anh gặp ông ấy lần nào chưa? Nếu gặp,anh có nhìn ra ổng không?”

--“Tôi chưa từng gặp ông ấy.Nếu gặp,chắc chắn tôi không nhìn ra được.”

Phật không xưng tên mình,mặc dù biết chàng thanh niên ấy vì mình mà đi xuất gia.Phật liền nói:”Anh có bằng lòng nghe giáo lý của tôi không?”.

--“Bằng lòng lắm chứ! Bạn cứ nói đi,tôi sẵn sàng nghe.”

Phật liền đem giáo lý Ngài ra giảng.

Sau khi nghe xong,Thầy Tỳ Kheo Pukkusati nhận ra liền:Người mặc áo Casa đứng trước mặt,nói giáo lý vừa xong,chính là Phật,chứ không ai xa lạ !Thầy liền quỳ xuống,trật vai áo bên phải,chấp tay đãnh lễ Đức Thế Tôn.Sáng ra,Đức Phật đưa Thầy Pukkusati,cùng đi với Phật về Tinh Xá Kỳ Hoàn tại thành Xá Vê,nhập vào Tăng đoàn của Phật.( Phỏng theo đề ngắn”Cần gì mang nhãn hiệu Phật mới là Phật”…Khi chàng Pukkusati...Phật Học Tinh Hoa-Thu Giang Nguyễn Duy Cần-trang 66.Người viết giảng rộng ra ở đề làm chủ tâm mình do Phật tánh vươn lên,là cách làm chủ siêu việt nhất.)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2023(Xem: 726)
Nhiều Phật tử thường nói với nhau như một lời nhắn nhủ: "Tiền tài danh vọng dù giàu nứt đố đổ vách, hằng tỉ đô la, siêu xe, dinh thự, quyền cao chức trọng...khi nhắm mắt xuôi tay chẳng mang được gì ngoài nghiệp“. Vậy nghiệp là gì, là quá trình trong cuộc sống dù vô tình hay cố ý, không chỉ kiếp này mà kể luôn những kiếp trước, những hành động dù thiện hay ác đều tạo nên nghiệp. Nghiệp tốt đến từ ý tưởng và hành vi tốt sẽ có kết quả tốt. Trái lại nghiệp xấu sẽ mang lại khổ đau. Đơn giản vậy thôi.
09/09/2023(Xem: 1213)
Lộ Trình Tu Tập: Giới, Định và Tuệ
04/11/2022(Xem: 2242)
Sau hai ngày 14 và 15 tháng 5 năm 2022, nhằm ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch, đúng vào ngày Đản Sanh năm 2646 của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, trước khi trở về Hamburg, Hòa Thượng Phương Trượng Tổ Đình Viên Giác tặng cho tôi cuốn “Tôi Đọc Đại Tạng Kinh.” Đây là tác phẩm 69 của ngài vào độ tuổi 73. Trên xe lửa, tôi vội đọc ngay lời Dẫn nhập của Thầy ở đầu sách. Thầy viết: “Tất cả chúng ta đều bình đẳng về thời gian, dầu nam hay nữ, Tăng hay Ni, người lớn hay trẻ thơ..., mỗi ngày đều có đúng 24 tiếng đồng hồ như nhau, không hơn không kém. Tuy nhiên có nhiều người làm được rất nhiều việc trong khoảng thời gian 24 tiếng đồng hồ đó, mà cũng có nhiều người đã bỏ phí thời gian một cách vô ích...”
23/09/2022(Xem: 1929)
Tại Pháp, cơn đại dịch thực sự bắt đầu vào khoảng tháng ba năm 2020, với các lịnh phong tỏa, hạn chế những sinh hoạt bình thường của dân chúng như mua bán, di chuyển, tụ họp, ngay cả các công ty, công sở, các văn phòng cũng phải hạn chế số nhân viên, nhân công…Nhưng oái ăm thay, tại các bệnh viện thì bịnh nhân quá đông mà bác sĩ, y tá, phụ tá, cho đến hạ tầng cơ sở, các lao công lo phần vệ sinh, quét dọn cũng không đủ để đảm nhiệm cho xuể mọi công việc. Khởi đầu nạn dịch quả thật đem lại nhiều lo âu cho mọi người. Nhưng rồi, phía chính phủ cũng như dân chúng, ai cũng phải cố gắng, hi sinh để đương đầu với đại nạn. Và dần dà những khó khăn ban đầu cũng được khắc phục.
20/09/2022(Xem: 1967)
Kẻ trí tuệ ít lỗi lầm và khi phạm lỗi thì nhận biết và tu sửa. Kẻ ngu si không biết lỗi lầm và khi nhận biết thì biện minh mà không hề tu sửa. -Kẻ trí tuệ trước mọi sự việc đều tìm hiểu và phân tích lợi-hại. Còn kẻ ngu si chỉ nhìn thấy lợi mà không thấy hại. -Kẻ trí tuệ biết đo lường thời thế. Còn kẻ ngu si thì làm bừa, khi thất bại lại đổ lỗi cho Trời. Tức khí nhảy ra đâm chém dễ. Nhẫn nhục chờ thời khó, “Khảng khái cần vương dị. Thung dung tựu nghĩa nan.” (Lý Trần Quán Tiến Sĩ đời Lê Trung Hưng) -Kẻ ngu si kết bạn bừa bãi, thường rủ rê đi các nơi ăn chơi như phòng trà ca vũ, quán nhậu, hát karaoke, hoặc tổ chức ăn nhậu ồn ào ở nhà khiến vợ con phải hầu hạ, buồn phiền. Rồi chỉ vì một cử chỉ hay lời nói gì đó mà vung dao giết nhau. Chính vì thế mà kẻ ngu si thường đem giặc cướp về nhà. Kẻ trí tuệ tiếp bạn một cách trang trọng. thanh lịch, lễ độ và chừng mực. “Quân tử chi giao đạm nhược thủy. Tiểu nhân chi giao điềm như mật”.
15/06/2022(Xem: 2938)
Bản ngã là một chủ đề từ lâu các nhà chú giải và quý giảng sư thường nhắc đến. Người viết chưa đủ khả năng lạm bàn, nhưng sở dĩ bài viết này có được…đó nhờ mục hỏi đáp của Trung tâm Hộ Tông với tiêu đề “ BẢN NGà VÀ ĐẠI NGÔ qua các câu hỏi của tứ chúng từ khắp nơi trong và ngoài nước gửi về và đã được Hoà Thượng Viên Minh hồi đáp.
24/02/2022(Xem: 5736)
Tác giả tác phẩm này là Tỳ Kheo Sujato, thường được ghi tên là Bhikkhu Sujato, một nhà sư Úc châu uyên bác, đã dịch bốn Tạng Nikaya từ tiếng Pali sang tiếng Anh. Bhikkhu Sujato cũng là Trưởng Ban Biên Tập mạng SuttaCentral.net, nơi lưu trữ Tạng Pali và Tạng A Hàm trong nhiều ngôn ngữ -- các ngôn ngữ Pali, Sanskrit, Tạng ngữ, Hán ngữ, Việt ngữ và vài chục ngôn ngữ khác – trong đó có bản Nikaya Việt ngữ do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Tạng Pali, và bản A-Hàm Việt ngữ do hai Hòa Thượng Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch từ Hán Tạng.
17/11/2021(Xem: 19922)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
13/11/2021(Xem: 10336)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/10/2020(Xem: 4403)
Bài viết này kính tri ân lời dạy của Sư Phụ Viên Mình trong bài pháp thoại “10 ba la mật “ và sự khuyến khích của Thượng Toạ Thích Nguyên Tạng “hãy thọ trì đọc tụng Kinh Bát Nhã Ba La Mật và nghe các bài tổng luận “ đang được đăng tải trên trangnhaquangduc Kính đa tạ và tri ân quý Ngài và kính xin phép được trình bày những điều con học được và kính xin quý Chư Tôn Đức và các bạn đạo tha thứ cho sự mạo muội của hậu bối vì dám “múa rìu qua mắt “, nhưng con trộm nghĩ .
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567