Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Làm chủ tâm mình

20/06/201407:09(Xem: 4566)
Làm chủ tâm mình

Buddha_23
LÀM CHỦ TÂM MÌNH


Đức Hạnh




Trong bài “Sức Mạnh Của Tâm” kỳ trước ,có nói đến Tâm là chủ tể.Đích thực,con người trên đời này làm nên vô số việc tốt,xấu,học hành,nên danh,nên nghiệp ,mưu sinh sống đời hạnh phúc,khổ đau,cho đến tu tập phật pháp được giác ngộ thành Phật ,thành Thánh, Nhân bản,v.v…đều do tâm chỉ đạo (nhất thiết duy tâm tạo).Qua đây cho ta thấy rằng;tâm là con người thật của con người,(động vật có linh giác,giác hồn thật siêu việt hơn tất cả các loài hữu tình khác trên trái đất này). Phi tâm ra,bản thân con người,chỉ là một khối thịt bất động.

Mặc dù tâm là con người thật của con người nhưng, tâm phải được rèn luyện văn chương Nhân bản,đạo lý Thánh hiền, kinh văn Phật học,thì mới có thể thành con người thật có trí tuệ. Do có trí tuệ, tâm luôn chánh trực,chánh đạo,là nền tảng thành công tốt đẹp mọi việc đời,đạo.Việc đời, là làm đúng theo công thức,kỹ thuật,họa đồ (plan) trong xí nghiệp,nghành nghề mưu sinh đúng theo pháp luật…Việc Phật, làm đúng theo giới luật Phật và chánh đạo,(8 con đường chánh).Tất cả do tâm chơn chánh nói chung,có mặt cùng lúc với thân làm các việc đời,đạo. Giống như trong một cơ xưỡng,luôn có ông chủ bên cạnh công nhân.Thì các công nhân ai cũng siêng năng làm việc đúng kỹ thuật,phẩm chất.Nếu không nói rằng;tâm ở lãnh vực này,như một ông thầy dạy nghề, hướng dẫn cho học viên thực tập không sai kỹ thuật.Đúng như ngạn ngữ VN “không thầy đố mầy làm nên”.Đúng như vậy,tâm có đạo lý Phật, Thánh,Nhân bản luôn làm chủ,chỉ đạo bản thân trong lúc hành động các việc được đúng cách,chính xác công thức,phẩm lượng…Tức là không sai nguyên lý cơ bản.Ngược lại bị sai,do tâm lang thang bên ngoài công việc, không làm chủ tâm,bởi thiếu rèn luyện những đạo lý trên.

Ý nghĩa làm chủ tâm, là đem tâm tư duy, nhận thức nhiều lần về việc gì ngoài đời,điều chi trong đạo,để thấy kết quả tốt,xấu trước khi làm,đúng như câu cách ngôn” Phàm làm việc gì,phải nghĩ đến kết quả của nó”.Sau đó xét thấy kết quả xấu,là chỉ lợi mình,hại người.Nếu ra tay hành động,bị phạm luật Pháp,giới luật phật.Với người, là gây tác hại thân mạng người khác, khổ đau cho bản thân,gia đình,bằng hữu chia rẽ,người trí chê cười,lợi nhất thời,nguy hại muôn đời bị nhân quả báo ứng ngàn đời mai sau.Cuối cùng làm chủ được tâm,không làm những việc phi pháp đó.Với những việc hợp pháp,không từ nan,ra tay quyết tâm làm cho bằng được nhưng,cũng phải làm chủ tâm, để chỉ đạo cho thân hành động,thì mọi việc mới được có kết quả tốt,đúng phẩm chất,kỹ thuật,công thức.

Vấn đề làm chủ tâm ở các ciệc đời,đạo để hành động đúng chánh đạo,kỹ thuật,chính xác phẩm chất,v.v…,là do tâm an trú ở trạng thái thanh tịnh,không bị lây động trước mọi cảnh giới,được phái Thiền nói đến,đưa vào công án,là đưa tâm sống trong tỉnh giác, tỉnh thức trong mọi môi trường,hoàn cảnh thực tại một cách thường trực(thường hằng thanh tịnh),thì mọi việc mới có kết quả trọn vẹn đúng cách,đúng đạo.Điều đó, ta thường nghe quý Thiền Sư căn dặn các Thiền sinh: lái xe phải biết mình lái xe,đi vững chải biết mình đang bước chân trên đất,thở vô ta biết ta đang thở vô,thở ra ta biết ta đang thở ra, nấu cơm,quét sân,đóng cửa chùa,đánh máy,chạy máy tiện,máy cưa,dệt vải,v.v… phải nhớ làm chủ tâm(tỉnh thức) vào những công việc ấy.Không thể một việc mà hai tâm có mặt cùng lúc.Nói rõ hơn,chỉ có một tâm tỉnh thức trong từng mỗi việc đang làm.Tâm đó là con người thật của ta suốt cả cuộc đời.Nếu để hai tâm con Vượn,con Ngựa có mặt trong lúc làm mọi việc, thì nhất định công việc bị đổ vỡ,không thành,tâm hồn bị điên đảo, tâm đó không phải con người thật của ta.

Phái Thiền cẩn thận cho đến nỗi, có lời khuyến cáo những hành giả đi tìm con đường giải thoát trong đạo Phật qua sự tu tập các pháp môn Thiền, Tịnh, Mật…,luôn làm chủ tâm mình,là không nên đặt tâm vào mọi cảnh giới,gọi là không trụ tâm.Tức là đối cảnh vô tâm(ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm),là nền tảng ngăn chận, nhận chìm những tạp niệm vốn có từ vô thủy,đang nằm im trong tạng thức,sẵn sàng vươn lên quấy động,làm cho tâm hành giả mất tỉnh thức,bị rối loạn,do không làm chủ tâm an trú chánh niệm,tỉnh thức,vì để tâm bị trôi lăn trên dòng vọng niệm,thì nhất định các việc không bao giờ được thành tựu.

Thiền chủ trương hành giả tu thiền,chỉ có một niệm,là niệm tỉnh thức,không có niệm khác xen kẽ vào,dù có đối cảnh nhưng,tâm không sanh tình.Mặc dù hành giả tu thiền đang có mặt giữa trường đời đầy ô trược,là môi trường thực tập có hiệu quả nhất,phải thấy vô số cảnh và người,là điều không thể tránh khỏi.Nhưng mắt thấy cứ thấy,thấy bởi tánh thấy của mắt.Chẵng lẽ nhắm mắt.Nghe âm thanh,là cứ nghe bởi tánh nghe của tai,chẵng lẽ bịt tai.Hai cái thức Mắt và Tai này,nói chung 5 thức trước (mắt,tai, mũi,miệng và thân) không liên đới với tâm,gọi là độc câu ý thức trên vận hành làm chủ tâm trong các việc đạo,đời.

Với hành giả tu thiền và kể cả người tu tịnh độ,hay tu quán niệm thực tướng các pháp là vô ngã, để đạt tâm vô ngã ngay giữa dòng đời.Tất cả đều làm chủ tâm,là không đem tâm phân tích,khái niệm,nhận thức mọi cảnh khi nhìn thấy,mọi âm thanh khi nghe đến.Đối trước mọi người quen hay lạ, khi bắt gặp ở bất cứ nơi đâu,ngoài lời chào hỏi thông lệ ra,liền giữ tâm tỉnh thức,không khởi tâm nói thầm(khen,chê )dán nhãn đối tượng thế này,thế kia.Bốn phái tu Thiền, Tịnh,Mật và Quán niệm, rất khắc khe đối cảnh mà sanh tình như vậy.Nếu sanh tình qua đối cảnh,đối tượng,dù là tình cảm, bốn hành giả nói trên,sẽ bị đánh mất Chơn tâm.

Hành giả 4 phái ấy,trên bước đường hành đạo,tất cả đều có chung “Chơn tâm thanh tịnh tuyệt đối”,như đã nói, sau khi đã học qua lý thuyết của bốn Pháp Thiền,Tịnh độ, Vô Ngã. Nếu không nói rằng; Lý bao giờ cũng làm sáng tỏ Đạo.Cho nên các hành giả học qua lý thuyết bốn pháp trên,đã được thấy các ĐẠO : Tâm không,Vô ngã,Nhất tâm bất loạn,từ lâu rồi do qua quá trình học,không hạn định thời gian lâu mau,nhiều bài hay ít.Miễn sao đủ, để thấy Đạo mà hành,cho nên đã thấy đạo rồi,thì hành theo đạo.Hành đạo là sống đúng theo điều mình đã hiểu,đã ngộ. Qua đây cho ta thấy Phật Học,không phải chỉ là cái Đạo để học,mà còn là cái Đạo để sống,sống trong cái tâm thanh tịnh, thường hằng bình đẳng nhất nguyên suốt cuộc đời hành đạo,cho đến khi đạt đạo.Ba thứ ngộ Đạo,hành Đạo và đạt Đạo gắn liền nhau trong tâm hành giả.

Do vậy, các hành giả luôn làm chủ tâm trong lúc thực hành các đạo lý ấy ngay giữa trường đời,chứ không còn đem tâm phân tích,khái niệm nữa.Nếu còn,tức là chưa thấy Đạo Vô ngã giải thoát.Vì thế,Thiền chủ trương Bất lập văn tự là như vậy(sự hiểu của người viết).Có nghĩa là các hành giả học Phật qua lý thuyết trước,rồi mới được thấy Đạo,thực hành theo Đạo để được giác ngộ chứng Đạo.Giống như học sinh làm bài toán quỷ tích,phải dựa trên giả thuyết,vẽ ra sẽ thấy quỷ tích chạy trên hình gì, chữ nhật,tam giác… Vì thế,để kiểm tra thiền sinh mình đã liễu đạo hay chưa, các vị Đạo sư hỏi lý thuyết.Thiền sinh nói liền,không suy nghĩ, phân vân,dù một giây cũng không được.Vì chưa ngộ đạo,không thể hành đạo được.

Hành giả học Phật,cho mục đích tìm cầu con đường giải thoát,không thể không làm chủ tâm mình trong lúc hành Đạo.Làm chủ tâm trên bước đường hành Đạo,giống như người chăn trâu đi tìm con trâu bị mất.Đi tìm trâu phải theo đúng dấu chân trâu.Dù con trâu bị mất là trâu Già, Tơ hay Nghé,chân đều giống nhau,chỉ khác lớn hay nhỏ,cho nên nó lên dốc,xuống trũng,vòng qua nương dâu…người đi tìm vẫn thấy dấu chân nó, không lẫn lộn với dấu chân Hưu, Nai, Bò,cho đến khi nào gặp được,dắt trâu về.Qua đây,cho ta thấy rằng;tất cả pháp môn tu của Phật,đều cùng một vị giải thoát(đạo giải thoát).Dù cho Pháp môn Thiền,Tịnh Mật, Quán niệm ,Quán chiếu,v.v…,gọi là Pháp môn nhỏ,pháp môn lớn.Tất cả đều có cùng đạo giải thoát,như các giống gạo Tẻ Nàng hương,Ba trăng… Nếp hạt tròn,hạt dài…,nấu lên sẽ thành cơm,một hạt cũng thành cơm.Nói rõ hơn,tất cả pháp môn tu của Phật,lớn,nhỏ,khó,dễ, đều cùng một vị giải thoát,đó là Chơn tâm, vô ngã.Điều này,được Phật đem lời căn dặn hàng Phật tử tại gia: “làm các việc thiện,từ việc nhỏ,đến việc lớn,đều phải xây dựng trên tinh thần Vô Ngã”.Nếu không nói rằng;tổng thể nền đạo lý phật giáo,là học thuyết Vô ngã.

Hành giả đã liễu đạo thanh tịnh vô ngã ở pháp môn mình đã chọn, hợp với căn cơ mình rồi,cứ tiếp tục làm chủ tâm trong lúc hành Đạo.Để cho tâm thêm được an ổn,trong lúc tri hành,là đóng 5 cửa trước lại,lái tâm mình đi trên con đường trung đạo,không thị phi,tranh cãi,nói thầm,dán nhãn đối tượng (dù có nghe âm thanh,có thấy cảnh),không cực đoan phía này,phía kia…Luôn tri hành theo lời chư Phật dạy:”Không làm các việc ác,nguyện làm các việc lành,giữ tâm hồn luôn thanh tịnh”. (chưa tu học, đi dọc đi ngang.Học rồi thấy đạo, thẳng đường mà đi).

Làm chủ tâm,có hai nền tảng.Một-Phật tánh vươn lên.Hai-Liễu đạo.Về liễu đạo,như đã được nói trên.Chỉ riêng đề mục Phật tánh vươn lên,rất hiếm thấy.Hiếm chứ không phải là không có.Điều đó được chứng minh qua hai câu chuyện sau đây:

Con người trên đời này,bất luận chủng tộc,quốc độ nào,một khi Phật tánh vươn lên như hoa sen ra khỏi mặt nước,nở cánh, ươm nhụy, kết hạt.Là lúc tự quây về ba ngôi báu Phật,Pháp,Tăng trong tâm mình ở góc 180 độ.Rồi tự hành Phật đạo ra giữa trường đời,gọi là người bộ hành cô đơn(kinh sống một mình).Có nghĩa là đi giữa biển đời đầy muôn sắc tục lụy thế gian,mà không hề bị nhiễm trần,do làm chủ Bồ Đề tâm mình vốn có,nói như lời Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni:”Ta sanh ra trong đười,lớn lên giữa đời,ta chinh phục đời,không bị đời làm ô nhiễm.Như vậy ta là Phật”.

I--Trên quê hương Việt nam, có một thanh niên giống như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni,đã tự mình quây về Phật,Pháp,Tăng trong tâm ở góc 180 độ.Rồi tự mình hành “Phật đạo” ra giữa trường đời đầy hình bóng giặc Pháp trên đất mẹ giữa thế kỷ 19,mà vẫn an nhiên tiến bước ,làm chủ Bồ Đề tâm mình trên đường hành đạo,một mình với cái mõ nhỏ và cuốn kinh Phổ Môn,không bổn sư, đạo hiệu,không chùa chiền, bổn đạo.Đó là vị Tổ đầu tiên chùa Trà Cú Phan Thiết.

Theo tiểu sử để lại,Vị Tổ đầu tiên tổ đình Trà Cú,tên là Trần Hữu Đức,người Phú Yên,ở tuổi thanh niên thời ấy,tự mình xuất gia,cạo tóc,mặc áo tràng nâu,với cuốn kinh Phổ Môn chữ Hán và cái mõ nhỏ canh cánh bên mình,là hành trang tu tập ở nương dâu,rừng núi tại quê nhà.Một ngày nọ,Ngài Hữu Đức tự đến ga xe lửa Tuy Hòa,đáp tàu xuyên Nam.Xuống ga Mường Mán,đi bộ mất mấy ngày mới đến địa phận Phan Thiết.Nơi đây, Ngài gặp quốc lộ 1,rồi đi về hướng tây bắc,gặp xóm Bào Trâm,Ngài rẽ vô rừng,nghỉ lại dưới chân núi Trà Cú vài hôm.Sau đó Ngài leo núi,được đến đỉnh rồi.Ngài vào thiền định,tụng kinh,niệm Phật trong hang đọng ở hướng đông nam của mặt núi,ngày qua ngày.Thỉnh thoảng Ngài ra hang để độ ngọ bằng rong rêu ở con suối cạn và ăn lá cây,uống nước suối.Lâu lắm mới được loài khỉ cúng cho vài trái cây rừng.

Một ngày nọ,có con Bạch Hổ đến nằm trước hang.Biết có thú dữ đến xin quây về Tam Bảo,Ngài bước ra, Bạch Hổ ngồi dậy với nét mặt hiền lành,đứng yên,được Ngài xoa đầu,là cách làm lễ quy y Tam bảo cho nó.

Tưởng rằng chỉ có hai thầy trò thôi.Ai ngờ có một thanh niên ở Phan Thiết tên Vĩnh Thọ,nghe trên núi Trà Cú có vị sư tu trong hang sâu và con bạch hổ tu ngoài hang,Liền lên đó đốn gỗ,để xem có thật vậy, hay không.Được thấy tận mắt có bạch hổ ngồi trước cửa hang ,thật là hiền,là hình ảnh chứng minh đang có vị Tăng trong hang,nên chi người thanh niên Vĩnh Thọ ngồi bên con cọp,để chờ gặp vị sư.Chẳng bao lâu,Ngài Hữu Đức từ hang ra,thanh niên Vĩnh Thọ quỳ xuống đãnh lễ, nói lời xin xuất gia liền khi đó với đạo hiệu bằng tên Vĩnh Thọ của mình,giống như thầy Hữu Đức lấy tên Ngài làm đạo hiệu khi tự xuất gia.Bởi vì Ngài Hữu Đức chỉ gật đầu,tức bằng lòng không lời kinh và cũng không lễ lạc truyền giới nào cho Thầy Thọ cả.Thầy Vĩnh Thọ phát nguyện ở đó,rồi tự cất am nhỏ để tu niệm và cho bạch hổ ở chung.Còn Ngài Hữu Đức vẫn tu trong hang như ngày nào.Thầy Vĩnh Thọ đi tìm những hạt giống ngũ cốc,rồi trồng trọt tại núi gần con suối để độ ngọ cho baThầy trò.Vài năm sau,một ngày nọ, Thầy Hữu Đức báo cho Thầy Vĩnh Thọ biết sẽ viên tịch.Đúng thật,Ngài Hữu Đức đã về cõi Phật.Sau khi chôn cất thầy mình xong,không thấy bạch hổ đâu cả.Thầy Thọ ra ngoài mộ,thấy bạch hổ nằm bên cạnh mộ, với nét mặt buồn thiu.Qua ba ngày bạch hổ chết theo Thầy mình.

Theo lời HT Thích Quảng Thanh,trụ trì chùa Bảo Quang ở quận CAM cho biết: Tổ đình Trà Cú có ba vị Tổ.Tổ thứ nhất,là Ngài Trần Hữu Đức.Tổ thứ hai,là Ngài Vĩnh Thọ.Tổ thứ ba.là Ngài Hòa Thượng Thích Long Đoàn. Tổ Vĩnh Thọ,là bổn sư của HT Quảng Liên.HT Quảng Liên là bổn sư của HT Chơn Thành ở chùa Liên Hoa.

II--Trong thời Phật còn tại thế,có một chàng thanh niên,vóc dáng khôi ngô,tuấn tú,đường đường một đấng trai làng ở phía nam thành Xá Vệ(Savathi) tên là PUKKUSATI.Anh Pukkusati,tự nhiên cạo bỏ râu,tóc,phục sức Cà Sa màu vàng,y hệt hình tướng Thầy Tỳ Kheo Tăng,đệ tử xuất gia của Phật.Từ đó chàng luôn làm chủ Bồ Đề tâm đang hiện hữu trong lòng,không khi nào vơi qua thiền tọa,thiền hành,khất thực.

Một ngày nọ,Thầy Tỳ Kheo Pukkusati đi hành thiền ra khỏi làng,khi trở về,gặp lúc hoàng hôn thay áo tím,không thể về làng trong đêm,Thầy ghé vào trại làm đồ gốm,xin ông chủ trại nghỉ lại. Sau khi Thầy Pukkusati vào phòng trước vài phút, thì ông chủ trại đưa Phật vô để nghỉ qua đêm.Thế là,Phật và Thầy Pukkusati cùng nghỉ nơi căn phòng rộng.Đức Phật và Thầy Pukkusati hai người xa lạ.Do vậy Đức Phật nhìn Thày Pukkusati,một thanh niên trai trẻ,khôi ngô,tuấn tú.Đức Phật bèn hỏi:”Này ông bạn Tỳ Kheo,vì ai mà anh bỏ gia đình,xuất gia tu hành? Thầy anh là ai?Anh thích giáo lý của ai?

Thầy Pukkusati thưa: -“Tôi vì nhà tu tên Gautama,dòng họ Sakya đã bỏ gia đình đi xuất gia tu hành,đã tìm ra đạo giải thoát,cho nên tôi đi xuất gia tu hành, giống như nhà tu Gautama.Chính ông ấy là Thầy tôi.Tôi thích giáo lý của ổng lắm!”

--“Ông ấy bây giờ đang ở đâu?”

--“Đang ở phía bắc thành Savathi.”

--“Anh gặp ông ấy lần nào chưa? Nếu gặp,anh có nhìn ra ổng không?”

--“Tôi chưa từng gặp ông ấy.Nếu gặp,chắc chắn tôi không nhìn ra được.”

Phật không xưng tên mình,mặc dù biết chàng thanh niên ấy vì mình mà đi xuất gia.Phật liền nói:”Anh có bằng lòng nghe giáo lý của tôi không?”.

--“Bằng lòng lắm chứ! Bạn cứ nói đi,tôi sẵn sàng nghe.”

Phật liền đem giáo lý Ngài ra giảng.

Sau khi nghe xong,Thầy Tỳ Kheo Pukkusati nhận ra liền:Người mặc áo Casa đứng trước mặt,nói giáo lý vừa xong,chính là Phật,chứ không ai xa lạ !Thầy liền quỳ xuống,trật vai áo bên phải,chấp tay đãnh lễ Đức Thế Tôn.Sáng ra,Đức Phật đưa Thầy Pukkusati,cùng đi với Phật về Tinh Xá Kỳ Hoàn tại thành Xá Vê,nhập vào Tăng đoàn của Phật.( Phỏng theo đề ngắn”Cần gì mang nhãn hiệu Phật mới là Phật”…Khi chàng Pukkusati...Phật Học Tinh Hoa-Thu Giang Nguyễn Duy Cần-trang 66.Người viết giảng rộng ra ở đề làm chủ tâm mình do Phật tánh vươn lên,là cách làm chủ siêu việt nhất.)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/04/2017(Xem: 9937)
Đạo Phật là đạo của giác ngộ, giải thoát nên lúc nào cũng phát khởi tấm lòng vô ngã, vị tha với tinh thần từ bi và trí huệ. Trong suốt 49 năm hoằng dương Chánh pháp, đức Phật đem hết sự thấy biết của mình qua sự tu chứng, trải nghiệm thực tế, nhằm thức tỉnh và giác ngộ mọi người để có sự hiểu biết chân chánh bằng niềm tin nơi chính mình và tin sâu nhân quả. Kinh Kamala được đức Phật nói trong hoàn cảnh khi Ngài cùng các đệ tử đi đến thị trấn Kêsaputa của sắc dân Kalama thuộc nước Kôsala.
22/04/2017(Xem: 5262)
Phật tử Chùa Thiên Khánh hỏi : 6-Hai người cùng tu tập như nhau, nhưng một người hay giúp đỡ và một người không? Vậy phước có đồng nhau không? Xin thầy chỉ dạy. Thầy trả lời : Câu hỏi này rất hay và có giá trị. Hai người cùng làm một công việc trong một thời điểm và có tài sức ngang nhau, thế nhưng có người thành công và có người thất bại. Đối với những người không thành công, họ hay tự an ủi mình rằng số mình chưa đến hoặc họ đổ thừa tại bị thì là…. Nhưng ít ai biết rằng tất cả nên hư, thành bại, tốt xấu đều do mình tạo ra trong quá khứ hoặc hiện tại
17/04/2017(Xem: 4935)
Thân và tâm là hai yếu tố quan trọng luôn liên hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau trong một cơ thể con người. Nếu ta luôn tỉnh giác hằng ngày, ý thức ba việc thường chớ đủ là ăn mặc, ngủ; hay nói cho đúng hơn, ta phải muốn ít, biết đủ, chỉ ăn uống điều độ vừa đủ để nuôi thân, làm việc, vận động hợp lý, ngủ nghỉ cho có chừng mực, nên thân khỏe mạnh, tinh thần sáng suốt, nhờ vậy mình dễ dàng buông xả mọi dính mắc trong cuộc đời mà thành tựu đạo pháp.
25/03/2017(Xem: 6698)
Còn nhớ nửa đầu thập niên 90 thế kỷ trước, mỗi khi có tác phẩm nào nội dung liên quan đến Phật giáo thì phía bộ phận quản lý đều yêu cầu tác giả hoặc nhà xuất bản phải trình qua phía văn hóa, hoằng pháp Phật giáo để có phê duyệt rõ ràng, thì mới được cấp giấy phép thực hiện và phát hành rộng rãi. Quy định chặt chẽ ấy đã giúp và hỗ trợ Phật giáo rất nhiều trong việc hạn chế được những sai phạm vô tình hay hữu ý hiểu sai về Phật giáo. Việc làm tích cực này hiện nay đã không còn thấy nữa. Vì vậy từ khi thấy có xuất hiện quyển sách "Tranh Nhân Quả" do Sư Thầy Thích Chân Quang biên soạn
19/03/2017(Xem: 6750)
Là người mới bắt đầu học Phật hoặc đã học Phật nhưng chưa thấm nhuần Phật pháp chân chính, chúng tôi biên soạn quyển sách nhỏ này, nhằm hướng dẫn cho người cư sĩ tại gia tập sống cuộc đời thánh thiện, theo lời Phật dạy. Chúng tôi cố gắng trình bày các nguyên tắc này theo sự hiểu biết có giới hạn của mình, sau một thời gian ứng dụng tu học cảm thấy có chút an lạc. Để giúp cho người cư sĩ tại gia thực hiện đúng vai trò và trách nhiệm của mình đối với gia đình người thân và cộng đồng xã hội. Trước tiên, chúng ta cần phải có một niềm tin vững chắc sau khi học hỏi, có tư duy sâu sắc, có quán chiếu chiêm nghiệm như lời Phật dạy sau đây: Này các thiện nam, tín nữ, khi nghe một điều gì, các vị phải quan sát, suy tư và thể nghiệm. Chỉ khi nào, sau khi thể nghiệm, quý vị thực sự thấy lời dạy này là tốt, lành mạnh, đạo đức, có khả năng hướng thiện, chói sáng và được người trí tán thán; nếu sống và thực hiện theo lời dạy này sẽ đem đến hạnh phúc, an lạc thực sự ngay hiện tại và về lâu về dài,
19/03/2017(Xem: 6368)
Nói đến đạo Phật là nói đến tinh thần nhân quả, nói đến sự giác ngộ của một con người. Con người sinh ra đủ phước báo hay bất hạnh là do tích lũy nghiệp từ nhiều đời mà hiện tại cho ra kết quả khác nhau. Mọi việc đều có thể thay đổi và cải thiện tốt hơn nếu chúng ta có ý chí và quyết tâm cao độ. Tất cả mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này là một dòng chuyển biến liên tục từng phút giây, không có gì là cố định cả. Một gia đình nọ, hai cha con cùng dạo chơi trong khu vườn nhà của họ. Bổng nhiên đứa con hỏi bố: “Bố ơi bố, nhà chúng ta có giàu không ạ?” Ông bố nghe xong liền mỉm cười, xoa đầu cậu con trai, rồi nói: “Bố có tiền, nhưng con không có. Tiền của bố là do bố tự mình siêng năng tích cực làm ra bằng đôi bàn tay và khối óc, được tích lũy trong nhiều năm tháng. Sau này con muốn giàu có như bố, trước tiên con phải học và chọn cho mình một nghề nghiệp chân chính, con cũng có thể thông qua nghề nghiệp của mình mà kiếm được tiền.”
17/03/2017(Xem: 6168)
1-Người Phật tử, phải thắng sự lười biếng bởi thái độ ỷ lại hay dựa dẫm vào người khác mà cầu khẩn van xin để đánh mất chính mình. 2-Bất mãn là thái độ thiếu khôn ngoan và sáng suốt, người trí càng nổ lực tu học và dấn thân đóng góp nhiều hơn nữa khi mọi việc chưa được tốt đẹp để không bị rơi vào trạng thái tiêu cực. 3-Người Phật tử chân chính, cương quyết phải thắng sự thiếu quyết tâm khi muốn làm việc thiện vì đó là trách nhiệm và bổn phận của người có lòng từ bi hỷ xả.
16/03/2017(Xem: 6269)
1-Người Phật tử hãy nên nhớ, sở dĩ con người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm do không tin sâu nhân quả và tin chính mình là chủ nhân của bao điều họa phúc. 2-Nếu chúng ta không muốn rước phiền não vào mình, thì người khác cũng không thể làm cho ta phiền muộn khổ đau, vì ta đã có cây kiếm trí tuệ nhờ nghe và biết chiêm nghiệm để rồi tu sửa. 3-Người Phật tử dù thắng trăm vạn quân cũng không bằng chiến thắng những thói hư tật xấu của mình, đó là chiến công oanh liệt nhất mà người đời ít ai làm được. 4-Chúng ta hãy luôn cám ơn nghịch cảnh vì chính khó khăn đó đã giúp cho ta có cơ hội quay lại chính mình, nhờ vậy tâm ta an tĩnh, sáng suốt mà tìm ra phương hướng để khắc phục.
14/03/2017(Xem: 5408)
Ngài là Thái tử, tên Sĩ Đạt Ta Có mẹ có cha, giống như mọi người. Mẹ là hoàng hậu, Thánh mẫu Ma Da Đức vua Tịnh Phạn, là cha của Ngài. Ngày rằm tháng tư, Thái tử ra đời Sinh xong bảy ngày, hoàng hậu sanh thiên.
26/02/2017(Xem: 11199)
“Tâm” là một trong những từ ngữ thường được biết, được nhắc đến nhiều nhất trong đời sống thường nhật (tâm, tâm lý , tâm linh, tâm thần, tâm niệm, tâm não, tâm tánh, tâm trạng, tâm sự, tâm tình… với biết bao nổi niềm vui buồn, thương ghét…) cũng như cũng rất phổ thông, phổ dụng trong đạo Phật . Lý do vì đạo Phật là đạo tu Tâm. Nhưng “Tâm là gì ? Tâm ở đâu ? Tu tâm là tu như thế nào ..lại là các điều cần được nắm vững. Ngoài ra lại có khá nhiều từ ngữ có liên hệ rất mật thiết với chữ “Tâm” như các chữ Tánh, Thức, Ý, Ý Thức, Tình Cảm, Xúc Cảm, Tư Duy, Lo Nghĩ, … Điều này khiến người học Phật khó tránh khỏi những hoang mang, mờ mịt, ngờ vực vì khó có thể phân định chuẩn xác được các phạm trù về ý nghĩa của chữ “Tâm” trong đạo Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567