Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nghiệp Nhân và Nghiệp Quả

01/10/202320:38(Xem: 756)
Nghiệp Nhân và Nghiệp Quả
Phat thuyet phap-4


Nghiệp Nhân và Nghiệp Quả
Trần Thị Nhật Hưng


Nhiều Phật tử thường nói với nhau như một lời nhắn nhủ:  "Tiền tài danh vọng dù giàu nứt đố đổ vách, hằng tỉ đô la, siêu xe, dinh thự, quyền cao chức trọng...khi nhắm mắt xuôi tay chẳng mang được gì ngoài nghiệp“. Vậy nghiệp là gì, là quá trình trong cuộc sống dù vô tình hay cố ý, không chỉ kiếp này mà kể luôn những kiếp trước, những hành động dù thiện hay ác đều tạo nên nghiệp. Nghiệp tốt đến từ ý tưởng và hành vi tốt sẽ có kết quả tốt. Trái lại nghiệp xấu sẽ mang lại khổ đau. Đơn giản vậy thôi.

Tôi xin kể một câu chuyện sau đây, ngay trong cuộc sống này, không cần đâu xa để chứng minh hậu quả của sự tạo tác do nghiệp.

***

 Tôi có một người bạn thân, cùng xóm, cùng lớp tên Vân. Trước 1975, Vân là một tiểu thư con nhà giàu có hạng. Trong nhà đầy kẻ ăn người làm, nên hằng ngày cô chỉ ăn và học, không nhúng tay bất cứ công việc gì. Thế rồi vô thường 75 đến, như bao gia đình khác, gia đình cô cũng chới với, long đong. Cô nghỉ học chờ thời, tìm công việc gì có thể phụ giúp gia đình ít nhất là tự nuôi được bản thân để chia sẻ, khỏi quấy rầy cha mẹ đang khốn đốn vì thời cuộc.

Vốn có chút chữ nghĩa, dù Vân mới chỉ học qua bậc trung học, nhưng đối với xã  hội lúc đó, những tài năng tinh hoa của đất nước một số tìm cách cao bay xa chạy ra nước ngoài, hầu hết ở lại vào tù, còn sót lại đa số „người rừng“ vừa mới chui từ rừng ra thì trình độ học vấn của Vân được đánh giá có hạng. Lại thêm chính sách nhà nước tẩy chay thành phần „ngụy quân, ngụy quyền“ sa thải hết các giáo chức cũ lý lịch „không hợp thời“ ra khỏi ngành, khiến họ „mất dạy“, nhiều người phải ra chợ trời lăn lóc kiếm sống. Vân bỗng có giá, mặc dù gia đình cô thuộc tiểu tư sản nhưng không dính líu thành phần phản động nên cô được tuyển dụng cấp tốc, đào tạo trong vài tháng ra gõ đầu trẻ thay thế những giáo chức cũ.

Vân bỗng thành cô giáo bất đắc dĩ, dù công việc cô không hằng mơ. Nhưng Vân bị đày lên dạy vùng thượng du xa xôi khỉ ho cò gáy, nơi mà đêm đêm chỉ nghe ếch nhái, ểnh ương cất lên những lời nỉ non than thân trách phận.

 Vân chấp nhận ra đi, chỉ cần vài tem phiếu nhu yếu phẩm, với 18 ký gạo...mốc, và đồng lương chết đói vẫn trám sơ cái dạ dày luôn trống rỗng. Tại đây, nhân duyên đưa đẩy, Vân gặp được người trong mộng cùng chung cảnh ngộ. Chàng có trình độ cao hơn, tốt nghiệp đại học sư phạm ban Anh văn. Nơi xa xôi hẻo lánh, núi đồi lạnh lẽo, hai tâm hồn hòa hợp cần sưởi ấm cho nhau, thế là họ yêu nhau rồi kết hôn sau đó.

Cuộc sống tạm gọi yên ổn, đắp đỗi qua ngày. Sau nhiều năm chịu đựng khí rừng, nước độc, gian nan khốn khổ nơi miền núi, vợ chồng Vân được hạ sơn, quay về thành phố. Anh dạy tại một trường trung học. Còn chị tiểu học. Và họ hạ sanh được hai trai.

Chỉ với hai con và ngành nghề cao quí, nhưng cả hai không đủ sống với đồng lương căn bản eo hẹp, phải tìm cách mở lớp dạy thêm tại nhà, thay vì phải bán bánh kẹo cho học sinh tại lớp để kiếm thêm thu nhập như bao cô giáo khác. Thế nhưng công việc „dạy thêm“ lại trái với chính sách qui định của nhà nước nên lớp học tại nhà bị đóng cửa khiến kinh tế gia đình vốn eo hẹp càng khó khăn hơn. Anh buồn, chị buồn.

Bất lực trước cuộc sống bế tắc, chưa biết làm sao hơn, thế rồi... họa vô đơn chí, bất ngờ chị mang thêm cái thai thứ ba! Thông thường đây là một niềm vui cho gia đình, nhưng với anh chị lúc đó là một hung tin! Chị khóc, anh thở dài. Vì theo chính sách của nhà nước mỗi gia đình chỉ được hai con, vi phạm sẽ bị đuổi ra khỏi ngành. Phải giải quyết sao đây? Đó là câu hỏi anh chị ngày đêm điên đầu không sao tìm ra câu giải đáp. Mất việc là chết đói cả nhà! Cuối cùng, chẳng đặng đừng, anh chị quyết định phá thai!

 Ngày chị lên bàn nạo. Cái thai hơi lớn, bịnh viện cần xét nghiệm kỹ trước khi thực hiện. Chị được chuyển đến phòng chuyên môn. Không rõ đó là may hay không may, người xét nghiệm hôm đó vắng mặt, hẹn chị lại ngày khác. Chị về nhà với lòng nặng trĩu, trút tâm sự cùng mẹ và bị mẹ mắng: „Tiên sư bố mày. Có bầu thì phải đẻ. Phá thai là giết người, không ngóc đầu lên được đâu nhé!“. Thế là chị bỏ cuộc, ngậm ngùi nghĩ đến tương lai, nước mắt chị sợi vắn sợi dài thi nhau lã chã...!

Chị đến trường rụt rè thông báo. Thật may mắn cho chị, vì bấy lâu chị là cô giáo dạy giỏi, năng nổ, tinh thần trách nhiệm cao, từng đại diện cho trường dạy mẫu và có công rất nhiều cho nhà trường. Ngoài việc dạy học, chị còn có khả năng văn nghệ đặc biệt, tập cho học sinh những màn nhạc cảnh, vũ, thi với trường khác và mang về cho trường nhiều giải thưởng. Chị được ban giám hiệu trường cứu xét và lưu dụng. Không bị mất việc nhưng chị bị cảnh cáo, hạ thấp hai bậc lương, bị cắt thi đua và không được tăng lương trong vòng ba năm liền. Thôi thì, có còn hơn không. Chị cắn răng chấp nhận và thả đời buông xuôi theo số phận.

Với hai con ngày càng khôn lớn, kinh tế vợ chồng chị đã lao đao, nay thêm đứa thứ ba và đồng lương bị cắt giảm, cuộc sống càng lao đao. Những bữa cơm độn, rau mắm, thỉnh thoảng mới có tí thịt, cá theo tiêu chuẩn, anh chị đều nhường cho con. Chị đi dạy thường với cái bụng trống trơn, uống nước lã thay cơm, chị ốm tong ốm teo, như bộ xương cách trí. Chị buồn, anh còn buồn hơn. Nhưng chịu trận biết sao  giờ?! Một bài vè đã nói lên tình cảnh của các giáo chức:

Sớm mai kiểng đánh chi mời (chơi mì: chỉ ăn khoai mì)

Trưa thì giáo chức (dứt cháo)

Tối thì khen ông (không ăn)

 Một ngày, nhân dịp Tết Nguyên Đán, anh chị về quê thăm gia đình bên nội. Miền quê có những thú vui xuân, trong đó có trò chơi đá gà và cá độ ăn tiền. Anh chị cũng tham gia giải sầu, trước vui xuân, sau càng vui hơn khi có thêm tí tiền thắng độ. Những con gà đá thua, thương tích đầy mình, bị đem xẻ thịt, anh chị hân hạnh được mời tham dự bữa ngon. Không gì thân thiện quây quần quanh bàn nhậu, thế là từ đó anh chị vui vẻ kết thân với bạn đá gà.

 Rồi xuân qua, hạ đến...thời gian vẫn trôi, thờ ơ trước mọi nỗi gian lao của mọi người. Anh chị vẫn đói thiếu như lúc nào, vẫn cố gắng loay hoay tìm cách thay đổi cuộc sống. Những ngày cuối tuần hay những giờ nghỉ dạy, bạn chơi đá gà đâu bỏ quên anh chị. Họ rủ rê hướng dẫn và tạo điều kiện cho anh chị tham gia. Ban đầu chỉ giải trí, nhưng những ngày sau đó, tiền kiếm được dần dà còn nhiều hơn lương đi dạy. Thú vui chỉ một phần nhưng đa số đều là cơm gạo để mưu sinh, phần chơi không cần bỏ vốn. Ngay cán bộ công nhân viên hay công an cấp cao, cũng xách gà đi chọi, càng lúc càng đánh lớn, cá độ với nhau. Họ chơi bằng niềm tin, ai thua không có tiền chung thì chạy làng nóng, đợi thắng thì trừ hay khi có tiền đem trả thì được tham gia đá tiếp. Cứ thế, vợ chồng chị Vân say sưa lao vào những trận đá gà. Và dần dần họ trở thành chuyên nghiệp. Anh chị nghiễm nhiên có thêm nghề tay trái, thu nhập vững vàng, đời sống khả quan hơn.

Một lần từ Thụy Sĩ về thăm quê hương, tôi ghé thăm Vân. Nghe chị kể về đời sống bấy lâu, tôi chợt rùng mình. Là Phật tử đã được học qua đôi chút về giáo lý Bát Chánh Đạo, trong đó có Chánh NghiệpChánh Mạng. Phật dạy chọn nghề nghiệp chân chánh, tránh xa những nghề xấu ác hại người như buôn bán độc dược, thuốc giả...hoặc giết hại mạng sống như đồ tể, săn bắn, bẫy chim, lưới cá..v.v..tôi đắn đo suy nghĩ rồi thật lòng khuyên chị:

- Vân à, là cô giáo, Vân không nên tham gia trò chơi  đá gà, trông không mô phạm tí nào; chưa kể nhìn hai con gà đá nhau thương tích đầy mình, đau đớn biết chừng nào. Con gà bị thua trước khi chết còn nát mặt, gãy chân, bầm mình, có khi hộc máu, vãi phân... Hình ảnh đó tàn ác kinh hãi quá chắc chắn sẽ chiêu cảm nghiệp quả không hay, tốt hơn Vân nên từ bỏ sớm.

Vân cúi mặt, thở dài, nước mắt rươm rướm chực trào ra:

- Mình cũng biết vậy, nhưng đồng lương dạy học không đủ nuôi gia đình, mình biết làm sao hơn?!

Sau khi hết lời khuyên nhủ, tôi cũng đành chỉ biết bùi ngùi thở dài, cảm thông nỗi niềm của chị. Tại Việt Nam, kể từ sau 1975, rất nhiều người trí thức đã không còn đất sống vì bị xem rẻ, phải bương chải làm đủ mọi ngành nghề vất vả để kiếm sống. Những thầy cô giáo còn đứng trên bục giảng như vợ chồng Vân thì cũng chỉ giữ được chút hình thức mô phạm bên ngoài thôi, bởi đồng lương chết đói không đủ lo cho gia đình đã đẩy họ vào đường cùng, không có nhiều lựa chọn. Trong cảnh khốn khó như vậy mà tìm được một lối thoát thì dù chật hẹp bùn lầy họ cũng phải chấp nhận, quả thật khó lòng từ chối được. Cho nên tôi cũng biết những lời khuyên can của mình không thể có tác dụng nếu như không làm gì được để giúp đỡ thay đổi được hoàn cảnh sống của bạn. Tôi chỉ biết nói thêm đôi lời an ủi rồi đành thở dài ra về, sau khi biếu tặng chị chút tiền như món quà của người phương xa!

 

Bẵng một thời gian, tôi nghe tin chồng Vân bị tai nạn xe. Hai chiếc xe Honda đâm vào nhau, anh té xuống và bị gãy vai. Tại Việt Nam, tai nạn giao thông trên những con đường chen chúc là chuyện bình thường như cơm bữa, nên ai cũng cho là không gì quan trọng đáng lưu ý. Nhưng khi đứa con trai cả của chị cũng bị tai nạn giao thông, cũng hai xe Honda đâm vào nhau, con trai chị té xuống nát mặt, gãy xương quai hàm. Nghe tin, tôi chợt rùng mình nghĩ đến hình ảnh mấy con gà đá đáng thương chị hay kể... Chúng cũng là chúng sinh tham sống sợ chết, muốn có một cuộc sống an lành, biết yêu thương. Cứ nhìn gà mẹ ấp ủ và bảo vệ đàn gà con, ai bảo chúng không có tình cảm, chỉ tại chúng không biết...nói, nên chúng ta không hiểu thôi. Những con gà đá bị chết thê thảm, với thời gian, ai dám khẳng định, chúng không có oan hồn đem lòng oán hận „hùa“ nhau trả đũa để cho gia đình chị biết tay, nếm cái đau mà chúng từng phải chịu!

Rõ ràng sau đó không lâu, đến người con trai thứ hai của chị cũng bị tai nạn giao thông, tông ngay vào xe đổ rác, ngã lăn ra bất tỉnh và bị gãy tay phải bó bột...Nhưng như thế chưa đâu, một thời gian sau nữa, cậu con trai đó tiếp tục bị tai nạn, lần này bể mặt, gãy xương hàm phải  giải phẫu như người anh cả; chưa kể đến lượt chồng chị bị sốt thổ huyết, vãi phân suýt chết, chị mới sực tỉnh tin lời tôi nói. Nhưng chị vẫn than vắn thở dài:

- Mình cố gắng nuôi con bé thứ ba (con bé xém bị nạo thai) ăn học thành tài, đợi khi cháu tốt nghiệp xong đi làm có thu nhập, mình sẽ bỏ nghề đá gà!

Nhưng hỡi ơi, khi con bé gái của chị vừa hoàn tất xong việc học, thì chính chị bị gãy hai chân, thay hai khớp háng. Bấy lâu, chị vốn thiếu dinh dưỡng, xương loãng, mục, chỉ va chạm nhẹ đã tổn thương rất nặng.


 Đến lúc này, chị mới cảm nhận rằng cả nhà chị đều nhận lãnh nghiệp quả, phải chịu đau đớn như những con gà đá.

Cũng may, tuy làm đau khổ những con gà, nhưng nhờ anh chị không có ý niệm ác, không cố tâm hành hạ chúng; bất đắc dĩ vì hoàn cảnh tác động và do mưu sinh, chưa rõ nhân quả, nghiệp chướng, mới phạm phải mà thôi. Nay anh chị nhận ra, biết sám hối, tụng kinh, nên khi nghiệp trổ ra, vẫn còn chút nhân lành, tất cả đều được chữa trị kịp thời, và bình thường trở lại như không chuyện gì xảy ra.


Nay chị còn đứa bé gái nguyên vẹn, không chỉ riêng chị mà chính cháu cũng sợ nghiệp quả. Vợ chồng chị đã bỏ „nghề“ đá gà. Cả hai mẹ con bảo nhau học và tụng Chú Đại Bi theo lời tôi khuyên vì Chú Đại Bi là thần chú, ngoài tin và tụng, phải biết sám hối sống tốt thì thần chú mới linh nghiệm. Cầu mong đứa con gái chị nói riêng và cả nhà chị nói chung từ nay được bình yên!


Thưa các bạn, qua câu chuyện tôi kể, thì nghiệp quả chứng nghiệm có thật, chính do mình, dù vô tình hay cố ý tạo tác từ thân, khẩu, ý; tùy mức độ mà khi hội đủ nhân duyên, nghiệp sẽ trổ ra để nhận nhân quả.

Trần Thị Nhật Hưng





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/09/2023(Xem: 1284)
Lộ Trình Tu Tập: Giới, Định và Tuệ
04/11/2022(Xem: 2277)
Sau hai ngày 14 và 15 tháng 5 năm 2022, nhằm ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch, đúng vào ngày Đản Sanh năm 2646 của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, trước khi trở về Hamburg, Hòa Thượng Phương Trượng Tổ Đình Viên Giác tặng cho tôi cuốn “Tôi Đọc Đại Tạng Kinh.” Đây là tác phẩm 69 của ngài vào độ tuổi 73. Trên xe lửa, tôi vội đọc ngay lời Dẫn nhập của Thầy ở đầu sách. Thầy viết: “Tất cả chúng ta đều bình đẳng về thời gian, dầu nam hay nữ, Tăng hay Ni, người lớn hay trẻ thơ..., mỗi ngày đều có đúng 24 tiếng đồng hồ như nhau, không hơn không kém. Tuy nhiên có nhiều người làm được rất nhiều việc trong khoảng thời gian 24 tiếng đồng hồ đó, mà cũng có nhiều người đã bỏ phí thời gian một cách vô ích...”
23/09/2022(Xem: 1964)
Tại Pháp, cơn đại dịch thực sự bắt đầu vào khoảng tháng ba năm 2020, với các lịnh phong tỏa, hạn chế những sinh hoạt bình thường của dân chúng như mua bán, di chuyển, tụ họp, ngay cả các công ty, công sở, các văn phòng cũng phải hạn chế số nhân viên, nhân công…Nhưng oái ăm thay, tại các bệnh viện thì bịnh nhân quá đông mà bác sĩ, y tá, phụ tá, cho đến hạ tầng cơ sở, các lao công lo phần vệ sinh, quét dọn cũng không đủ để đảm nhiệm cho xuể mọi công việc. Khởi đầu nạn dịch quả thật đem lại nhiều lo âu cho mọi người. Nhưng rồi, phía chính phủ cũng như dân chúng, ai cũng phải cố gắng, hi sinh để đương đầu với đại nạn. Và dần dà những khó khăn ban đầu cũng được khắc phục.
20/09/2022(Xem: 1999)
Kẻ trí tuệ ít lỗi lầm và khi phạm lỗi thì nhận biết và tu sửa. Kẻ ngu si không biết lỗi lầm và khi nhận biết thì biện minh mà không hề tu sửa. -Kẻ trí tuệ trước mọi sự việc đều tìm hiểu và phân tích lợi-hại. Còn kẻ ngu si chỉ nhìn thấy lợi mà không thấy hại. -Kẻ trí tuệ biết đo lường thời thế. Còn kẻ ngu si thì làm bừa, khi thất bại lại đổ lỗi cho Trời. Tức khí nhảy ra đâm chém dễ. Nhẫn nhục chờ thời khó, “Khảng khái cần vương dị. Thung dung tựu nghĩa nan.” (Lý Trần Quán Tiến Sĩ đời Lê Trung Hưng) -Kẻ ngu si kết bạn bừa bãi, thường rủ rê đi các nơi ăn chơi như phòng trà ca vũ, quán nhậu, hát karaoke, hoặc tổ chức ăn nhậu ồn ào ở nhà khiến vợ con phải hầu hạ, buồn phiền. Rồi chỉ vì một cử chỉ hay lời nói gì đó mà vung dao giết nhau. Chính vì thế mà kẻ ngu si thường đem giặc cướp về nhà. Kẻ trí tuệ tiếp bạn một cách trang trọng. thanh lịch, lễ độ và chừng mực. “Quân tử chi giao đạm nhược thủy. Tiểu nhân chi giao điềm như mật”.
15/06/2022(Xem: 2976)
Bản ngã là một chủ đề từ lâu các nhà chú giải và quý giảng sư thường nhắc đến. Người viết chưa đủ khả năng lạm bàn, nhưng sở dĩ bài viết này có được…đó nhờ mục hỏi đáp của Trung tâm Hộ Tông với tiêu đề “ BẢN NGà VÀ ĐẠI NGÔ qua các câu hỏi của tứ chúng từ khắp nơi trong và ngoài nước gửi về và đã được Hoà Thượng Viên Minh hồi đáp.
24/02/2022(Xem: 5819)
Tác giả tác phẩm này là Tỳ Kheo Sujato, thường được ghi tên là Bhikkhu Sujato, một nhà sư Úc châu uyên bác, đã dịch bốn Tạng Nikaya từ tiếng Pali sang tiếng Anh. Bhikkhu Sujato cũng là Trưởng Ban Biên Tập mạng SuttaCentral.net, nơi lưu trữ Tạng Pali và Tạng A Hàm trong nhiều ngôn ngữ -- các ngôn ngữ Pali, Sanskrit, Tạng ngữ, Hán ngữ, Việt ngữ và vài chục ngôn ngữ khác – trong đó có bản Nikaya Việt ngữ do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Tạng Pali, và bản A-Hàm Việt ngữ do hai Hòa Thượng Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch từ Hán Tạng.
17/11/2021(Xem: 20164)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
13/11/2021(Xem: 10538)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/10/2020(Xem: 4437)
Bài viết này kính tri ân lời dạy của Sư Phụ Viên Mình trong bài pháp thoại “10 ba la mật “ và sự khuyến khích của Thượng Toạ Thích Nguyên Tạng “hãy thọ trì đọc tụng Kinh Bát Nhã Ba La Mật và nghe các bài tổng luận “ đang được đăng tải trên trangnhaquangduc Kính đa tạ và tri ân quý Ngài và kính xin phép được trình bày những điều con học được và kính xin quý Chư Tôn Đức và các bạn đạo tha thứ cho sự mạo muội của hậu bối vì dám “múa rìu qua mắt “, nhưng con trộm nghĩ .
16/09/2020(Xem: 5002)
Một Phật tử tại gia như tôi không biết gặp duyên phước nào để có thể được ghi lại vài cảm nghĩ về một bài viết mà cốt lõi chính yếu nằm trong Duy Thức Học , một bộ môn khó nhất cho những ai đã theo Đại Thừa Phật Giáo chỉ đứng hàng thứ hai sau Bộ kinh Đại Bát Nhã và hơn thế nữa những lời dẫn chứng lại trích từ quý Cao Tăng Thạc Đức rất uyên bác trác tuyệt về giáo lý Phật Đà như Đệ lục Tăng Thống HT Thích Tuệ Sỹ và Cố Thiền Sư Nhật Bản Daisetz Teitaro Suzuki.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567