Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nghiệp Nhân và Nghiệp Quả

01/10/202320:38(Xem: 794)
Nghiệp Nhân và Nghiệp Quả
Phat thuyet phap-4


Nghiệp Nhân và Nghiệp Quả
Trần Thị Nhật Hưng


Nhiều Phật tử thường nói với nhau như một lời nhắn nhủ:  "Tiền tài danh vọng dù giàu nứt đố đổ vách, hằng tỉ đô la, siêu xe, dinh thự, quyền cao chức trọng...khi nhắm mắt xuôi tay chẳng mang được gì ngoài nghiệp“. Vậy nghiệp là gì, là quá trình trong cuộc sống dù vô tình hay cố ý, không chỉ kiếp này mà kể luôn những kiếp trước, những hành động dù thiện hay ác đều tạo nên nghiệp. Nghiệp tốt đến từ ý tưởng và hành vi tốt sẽ có kết quả tốt. Trái lại nghiệp xấu sẽ mang lại khổ đau. Đơn giản vậy thôi.

Tôi xin kể một câu chuyện sau đây, ngay trong cuộc sống này, không cần đâu xa để chứng minh hậu quả của sự tạo tác do nghiệp.

***

 Tôi có một người bạn thân, cùng xóm, cùng lớp tên Vân. Trước 1975, Vân là một tiểu thư con nhà giàu có hạng. Trong nhà đầy kẻ ăn người làm, nên hằng ngày cô chỉ ăn và học, không nhúng tay bất cứ công việc gì. Thế rồi vô thường 75 đến, như bao gia đình khác, gia đình cô cũng chới với, long đong. Cô nghỉ học chờ thời, tìm công việc gì có thể phụ giúp gia đình ít nhất là tự nuôi được bản thân để chia sẻ, khỏi quấy rầy cha mẹ đang khốn đốn vì thời cuộc.

Vốn có chút chữ nghĩa, dù Vân mới chỉ học qua bậc trung học, nhưng đối với xã  hội lúc đó, những tài năng tinh hoa của đất nước một số tìm cách cao bay xa chạy ra nước ngoài, hầu hết ở lại vào tù, còn sót lại đa số „người rừng“ vừa mới chui từ rừng ra thì trình độ học vấn của Vân được đánh giá có hạng. Lại thêm chính sách nhà nước tẩy chay thành phần „ngụy quân, ngụy quyền“ sa thải hết các giáo chức cũ lý lịch „không hợp thời“ ra khỏi ngành, khiến họ „mất dạy“, nhiều người phải ra chợ trời lăn lóc kiếm sống. Vân bỗng có giá, mặc dù gia đình cô thuộc tiểu tư sản nhưng không dính líu thành phần phản động nên cô được tuyển dụng cấp tốc, đào tạo trong vài tháng ra gõ đầu trẻ thay thế những giáo chức cũ.

Vân bỗng thành cô giáo bất đắc dĩ, dù công việc cô không hằng mơ. Nhưng Vân bị đày lên dạy vùng thượng du xa xôi khỉ ho cò gáy, nơi mà đêm đêm chỉ nghe ếch nhái, ểnh ương cất lên những lời nỉ non than thân trách phận.

 Vân chấp nhận ra đi, chỉ cần vài tem phiếu nhu yếu phẩm, với 18 ký gạo...mốc, và đồng lương chết đói vẫn trám sơ cái dạ dày luôn trống rỗng. Tại đây, nhân duyên đưa đẩy, Vân gặp được người trong mộng cùng chung cảnh ngộ. Chàng có trình độ cao hơn, tốt nghiệp đại học sư phạm ban Anh văn. Nơi xa xôi hẻo lánh, núi đồi lạnh lẽo, hai tâm hồn hòa hợp cần sưởi ấm cho nhau, thế là họ yêu nhau rồi kết hôn sau đó.

Cuộc sống tạm gọi yên ổn, đắp đỗi qua ngày. Sau nhiều năm chịu đựng khí rừng, nước độc, gian nan khốn khổ nơi miền núi, vợ chồng Vân được hạ sơn, quay về thành phố. Anh dạy tại một trường trung học. Còn chị tiểu học. Và họ hạ sanh được hai trai.

Chỉ với hai con và ngành nghề cao quí, nhưng cả hai không đủ sống với đồng lương căn bản eo hẹp, phải tìm cách mở lớp dạy thêm tại nhà, thay vì phải bán bánh kẹo cho học sinh tại lớp để kiếm thêm thu nhập như bao cô giáo khác. Thế nhưng công việc „dạy thêm“ lại trái với chính sách qui định của nhà nước nên lớp học tại nhà bị đóng cửa khiến kinh tế gia đình vốn eo hẹp càng khó khăn hơn. Anh buồn, chị buồn.

Bất lực trước cuộc sống bế tắc, chưa biết làm sao hơn, thế rồi... họa vô đơn chí, bất ngờ chị mang thêm cái thai thứ ba! Thông thường đây là một niềm vui cho gia đình, nhưng với anh chị lúc đó là một hung tin! Chị khóc, anh thở dài. Vì theo chính sách của nhà nước mỗi gia đình chỉ được hai con, vi phạm sẽ bị đuổi ra khỏi ngành. Phải giải quyết sao đây? Đó là câu hỏi anh chị ngày đêm điên đầu không sao tìm ra câu giải đáp. Mất việc là chết đói cả nhà! Cuối cùng, chẳng đặng đừng, anh chị quyết định phá thai!

 Ngày chị lên bàn nạo. Cái thai hơi lớn, bịnh viện cần xét nghiệm kỹ trước khi thực hiện. Chị được chuyển đến phòng chuyên môn. Không rõ đó là may hay không may, người xét nghiệm hôm đó vắng mặt, hẹn chị lại ngày khác. Chị về nhà với lòng nặng trĩu, trút tâm sự cùng mẹ và bị mẹ mắng: „Tiên sư bố mày. Có bầu thì phải đẻ. Phá thai là giết người, không ngóc đầu lên được đâu nhé!“. Thế là chị bỏ cuộc, ngậm ngùi nghĩ đến tương lai, nước mắt chị sợi vắn sợi dài thi nhau lã chã...!

Chị đến trường rụt rè thông báo. Thật may mắn cho chị, vì bấy lâu chị là cô giáo dạy giỏi, năng nổ, tinh thần trách nhiệm cao, từng đại diện cho trường dạy mẫu và có công rất nhiều cho nhà trường. Ngoài việc dạy học, chị còn có khả năng văn nghệ đặc biệt, tập cho học sinh những màn nhạc cảnh, vũ, thi với trường khác và mang về cho trường nhiều giải thưởng. Chị được ban giám hiệu trường cứu xét và lưu dụng. Không bị mất việc nhưng chị bị cảnh cáo, hạ thấp hai bậc lương, bị cắt thi đua và không được tăng lương trong vòng ba năm liền. Thôi thì, có còn hơn không. Chị cắn răng chấp nhận và thả đời buông xuôi theo số phận.

Với hai con ngày càng khôn lớn, kinh tế vợ chồng chị đã lao đao, nay thêm đứa thứ ba và đồng lương bị cắt giảm, cuộc sống càng lao đao. Những bữa cơm độn, rau mắm, thỉnh thoảng mới có tí thịt, cá theo tiêu chuẩn, anh chị đều nhường cho con. Chị đi dạy thường với cái bụng trống trơn, uống nước lã thay cơm, chị ốm tong ốm teo, như bộ xương cách trí. Chị buồn, anh còn buồn hơn. Nhưng chịu trận biết sao  giờ?! Một bài vè đã nói lên tình cảnh của các giáo chức:

Sớm mai kiểng đánh chi mời (chơi mì: chỉ ăn khoai mì)

Trưa thì giáo chức (dứt cháo)

Tối thì khen ông (không ăn)

 Một ngày, nhân dịp Tết Nguyên Đán, anh chị về quê thăm gia đình bên nội. Miền quê có những thú vui xuân, trong đó có trò chơi đá gà và cá độ ăn tiền. Anh chị cũng tham gia giải sầu, trước vui xuân, sau càng vui hơn khi có thêm tí tiền thắng độ. Những con gà đá thua, thương tích đầy mình, bị đem xẻ thịt, anh chị hân hạnh được mời tham dự bữa ngon. Không gì thân thiện quây quần quanh bàn nhậu, thế là từ đó anh chị vui vẻ kết thân với bạn đá gà.

 Rồi xuân qua, hạ đến...thời gian vẫn trôi, thờ ơ trước mọi nỗi gian lao của mọi người. Anh chị vẫn đói thiếu như lúc nào, vẫn cố gắng loay hoay tìm cách thay đổi cuộc sống. Những ngày cuối tuần hay những giờ nghỉ dạy, bạn chơi đá gà đâu bỏ quên anh chị. Họ rủ rê hướng dẫn và tạo điều kiện cho anh chị tham gia. Ban đầu chỉ giải trí, nhưng những ngày sau đó, tiền kiếm được dần dà còn nhiều hơn lương đi dạy. Thú vui chỉ một phần nhưng đa số đều là cơm gạo để mưu sinh, phần chơi không cần bỏ vốn. Ngay cán bộ công nhân viên hay công an cấp cao, cũng xách gà đi chọi, càng lúc càng đánh lớn, cá độ với nhau. Họ chơi bằng niềm tin, ai thua không có tiền chung thì chạy làng nóng, đợi thắng thì trừ hay khi có tiền đem trả thì được tham gia đá tiếp. Cứ thế, vợ chồng chị Vân say sưa lao vào những trận đá gà. Và dần dần họ trở thành chuyên nghiệp. Anh chị nghiễm nhiên có thêm nghề tay trái, thu nhập vững vàng, đời sống khả quan hơn.

Một lần từ Thụy Sĩ về thăm quê hương, tôi ghé thăm Vân. Nghe chị kể về đời sống bấy lâu, tôi chợt rùng mình. Là Phật tử đã được học qua đôi chút về giáo lý Bát Chánh Đạo, trong đó có Chánh NghiệpChánh Mạng. Phật dạy chọn nghề nghiệp chân chánh, tránh xa những nghề xấu ác hại người như buôn bán độc dược, thuốc giả...hoặc giết hại mạng sống như đồ tể, săn bắn, bẫy chim, lưới cá..v.v..tôi đắn đo suy nghĩ rồi thật lòng khuyên chị:

- Vân à, là cô giáo, Vân không nên tham gia trò chơi  đá gà, trông không mô phạm tí nào; chưa kể nhìn hai con gà đá nhau thương tích đầy mình, đau đớn biết chừng nào. Con gà bị thua trước khi chết còn nát mặt, gãy chân, bầm mình, có khi hộc máu, vãi phân... Hình ảnh đó tàn ác kinh hãi quá chắc chắn sẽ chiêu cảm nghiệp quả không hay, tốt hơn Vân nên từ bỏ sớm.

Vân cúi mặt, thở dài, nước mắt rươm rướm chực trào ra:

- Mình cũng biết vậy, nhưng đồng lương dạy học không đủ nuôi gia đình, mình biết làm sao hơn?!

Sau khi hết lời khuyên nhủ, tôi cũng đành chỉ biết bùi ngùi thở dài, cảm thông nỗi niềm của chị. Tại Việt Nam, kể từ sau 1975, rất nhiều người trí thức đã không còn đất sống vì bị xem rẻ, phải bương chải làm đủ mọi ngành nghề vất vả để kiếm sống. Những thầy cô giáo còn đứng trên bục giảng như vợ chồng Vân thì cũng chỉ giữ được chút hình thức mô phạm bên ngoài thôi, bởi đồng lương chết đói không đủ lo cho gia đình đã đẩy họ vào đường cùng, không có nhiều lựa chọn. Trong cảnh khốn khó như vậy mà tìm được một lối thoát thì dù chật hẹp bùn lầy họ cũng phải chấp nhận, quả thật khó lòng từ chối được. Cho nên tôi cũng biết những lời khuyên can của mình không thể có tác dụng nếu như không làm gì được để giúp đỡ thay đổi được hoàn cảnh sống của bạn. Tôi chỉ biết nói thêm đôi lời an ủi rồi đành thở dài ra về, sau khi biếu tặng chị chút tiền như món quà của người phương xa!

 

Bẵng một thời gian, tôi nghe tin chồng Vân bị tai nạn xe. Hai chiếc xe Honda đâm vào nhau, anh té xuống và bị gãy vai. Tại Việt Nam, tai nạn giao thông trên những con đường chen chúc là chuyện bình thường như cơm bữa, nên ai cũng cho là không gì quan trọng đáng lưu ý. Nhưng khi đứa con trai cả của chị cũng bị tai nạn giao thông, cũng hai xe Honda đâm vào nhau, con trai chị té xuống nát mặt, gãy xương quai hàm. Nghe tin, tôi chợt rùng mình nghĩ đến hình ảnh mấy con gà đá đáng thương chị hay kể... Chúng cũng là chúng sinh tham sống sợ chết, muốn có một cuộc sống an lành, biết yêu thương. Cứ nhìn gà mẹ ấp ủ và bảo vệ đàn gà con, ai bảo chúng không có tình cảm, chỉ tại chúng không biết...nói, nên chúng ta không hiểu thôi. Những con gà đá bị chết thê thảm, với thời gian, ai dám khẳng định, chúng không có oan hồn đem lòng oán hận „hùa“ nhau trả đũa để cho gia đình chị biết tay, nếm cái đau mà chúng từng phải chịu!

Rõ ràng sau đó không lâu, đến người con trai thứ hai của chị cũng bị tai nạn giao thông, tông ngay vào xe đổ rác, ngã lăn ra bất tỉnh và bị gãy tay phải bó bột...Nhưng như thế chưa đâu, một thời gian sau nữa, cậu con trai đó tiếp tục bị tai nạn, lần này bể mặt, gãy xương hàm phải  giải phẫu như người anh cả; chưa kể đến lượt chồng chị bị sốt thổ huyết, vãi phân suýt chết, chị mới sực tỉnh tin lời tôi nói. Nhưng chị vẫn than vắn thở dài:

- Mình cố gắng nuôi con bé thứ ba (con bé xém bị nạo thai) ăn học thành tài, đợi khi cháu tốt nghiệp xong đi làm có thu nhập, mình sẽ bỏ nghề đá gà!

Nhưng hỡi ơi, khi con bé gái của chị vừa hoàn tất xong việc học, thì chính chị bị gãy hai chân, thay hai khớp háng. Bấy lâu, chị vốn thiếu dinh dưỡng, xương loãng, mục, chỉ va chạm nhẹ đã tổn thương rất nặng.


 Đến lúc này, chị mới cảm nhận rằng cả nhà chị đều nhận lãnh nghiệp quả, phải chịu đau đớn như những con gà đá.

Cũng may, tuy làm đau khổ những con gà, nhưng nhờ anh chị không có ý niệm ác, không cố tâm hành hạ chúng; bất đắc dĩ vì hoàn cảnh tác động và do mưu sinh, chưa rõ nhân quả, nghiệp chướng, mới phạm phải mà thôi. Nay anh chị nhận ra, biết sám hối, tụng kinh, nên khi nghiệp trổ ra, vẫn còn chút nhân lành, tất cả đều được chữa trị kịp thời, và bình thường trở lại như không chuyện gì xảy ra.


Nay chị còn đứa bé gái nguyên vẹn, không chỉ riêng chị mà chính cháu cũng sợ nghiệp quả. Vợ chồng chị đã bỏ „nghề“ đá gà. Cả hai mẹ con bảo nhau học và tụng Chú Đại Bi theo lời tôi khuyên vì Chú Đại Bi là thần chú, ngoài tin và tụng, phải biết sám hối sống tốt thì thần chú mới linh nghiệm. Cầu mong đứa con gái chị nói riêng và cả nhà chị nói chung từ nay được bình yên!


Thưa các bạn, qua câu chuyện tôi kể, thì nghiệp quả chứng nghiệm có thật, chính do mình, dù vô tình hay cố ý tạo tác từ thân, khẩu, ý; tùy mức độ mà khi hội đủ nhân duyên, nghiệp sẽ trổ ra để nhận nhân quả.

Trần Thị Nhật Hưng





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/06/2019(Xem: 7016)
"Nhân sinh": đời người, cuộc sống con người "Quan": cái nhìn, quan niệm "Nhân sinh Quan" nghĩa là "cái nhìn" hay "quan niệm" về đời sống của con người. A) Con người từ đâu mà có? Phật giáo giải đáp câu hỏi ngàn đời nầy bằng giáo thuyếtThập nhị Nhân duyên, tức là chuỗi 12 nhân duyên dây chuyền sau đây: 1) Vô minh: Do một niệm bất giác mà phát sinh mê lầm, chấp ngã chấp pháp, do đó mà khởi ra Phiền não - nên cũng gọi là Hoặc. Chúng ta không thể tìm ra điểm khởi đầu của sự Vô minhđã khởi đầu cho sự hiện hữu của chúng sinh và vạn vật, hữu tình cũng như vô tình.
12/04/2019(Xem: 3756)
Thế mới biết trăm sông rồi cũng đổ về biển, dung hòa một vị mặn của đại dương; muôn pháp cùng đổ vào biển tuệ, thuần một vị giải thoát.Những lời dạy của đức Phật được ghi chép thành Tam tạng kinh điển, trở thành một trong những kho tàng trí tuệ vĩ đại nhất của nhân loại. Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật được truyền bá rộng rãi khắp năm châu và bị ảnh hưởng cũng không nhỏ bởi nhiều nền văn hóa khác. Từ đó, đạo Phật phát triển với các biểu tượng về tôn giáo, về các hình thức nghi lễ, và kể cả những pháp môn tu hành của những khóa tu ở mỗi nơi.Chính vì thế, đạo Phật bị đa dạng hoá về hình thức lẫn nội dung tu tập, thể hiện qua nhiều pháp môn. Như vậy trong thời đại bây giờ, đặt ra cho chúng ta sự lựa chọn; pháp môn nào là đúng, phápmôn nào là sai? Không có pháp môn nào là đúng và không có pháp môn nào là sai cả. Tại sao? Vì pháp môn tu không có lỗi, mà lỗi ở tại con người làm đúng hay sai mà thôi.
14/02/2019(Xem: 7126)
Thuở xưa có một ông vua hiền đức, cai trị công bằng, dân chúng trong nước sống thanh bình. Một hôm, dưới sự đề nghị của cận thần tả hữu, vua triệu tập tất cả trưởng lão tôn túc của các tôn giáo trong nước. Khi tất cả có mặt đầy đủ, vua nói:
13/12/2018(Xem: 4228)
Suy nghĩ về Mười Hai Nhân Duyên - GS Trần Tuấn Mẫn , Nguyên văn đoạn kinh trong phẩm Phật-đà, Tương ưng bộ, như sau: “Này các Tỳ-kheo, thế nào là lý duyên khởi? Này các Tỳ-kheo, vô minh duyên hành; hành duyên thức; thức duyên danh sắc; danh sắc duyên sáu xứ; sáu xứ duyên xúc; xúc duyên thọ; thọ duyên ái; ái duyên thủ; thủ duyên hữu; hữu duyên sanh; sanh duyên già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được khởi lên. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi”.
02/12/2018(Xem: 8630)
Thời gian gần đây nhiều Phật tử đã yêu cầu tôi giải thích những lời dạy vô giá của Phật theo phương cách hiện đại, xử dụng thuật ngữ và diễn giải thực tế, có hiệu quả, thực tiễn và không quá cao siêu. Theo phương cách dễ hiểu và thực tế để áp dụng trong đời sống hằng ngày. Đây là tập sách đầu của một chuỗi những tập sách nhằm mục đích đáp ứng những thỉnh cầu này. Đây là tập sách sưu tập gồm 50 lời dạy ngắn kèm theo chú giải chi tiết dài ngắn khác nhau, mục đích để khuyến khích tất cả những vị đã dành thời gian để đọc và thực hành những lời dạy này để phát triển sự hiếu biết chân thật và lòng từ bi.
05/11/2018(Xem: 3900)
“Chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì nghe theo người ta nói; chớ có tin vì được Kinh Tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình. Nhưng khi nào tự mình biết rõ như sau: “Các pháp này là bất thiện; Các pháp này là có tội; Các pháp này bị các người có trí chỉ trích; Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau”, thời hãy từ bỏ chúng! Nhưng khi nào tự mình biết rõ như sau: ‘các pháp này là thiện; các pháp này không có tội; các pháp này được các người có trí tán thán; các pháp này nếu được chấp nhận và thực hiện đưa đến hạnh phúc an lạc’, thời hãy từ đạt đến và an trú!” Đức Phật (Kinh Tăng Chi Bộ)
18/10/2018(Xem: 3813)
Phải nghi trước, rồi gỡ được nỗi nghi xong, bấy giờ tin tưởng mới chắc thật. Đó là chuyện của người tộc họ Kalama ở thành phố Kesaputta thời hơn 2,500 năm về trước. Thực tế, thời nào cũng có người Kalama, chứ không phải chỉ trong thời xa xưa. Có thể đoán rằng, những người mang dòng máu Kalama mạnh nhất, hẳn là các nhà khoa học – thí dụ, như các nhà vật lý thiên tài Albert Einstein, Stephen Hawking... Chớ hòng ai thuyết phục họ tin cái gì không thuận lý.
04/09/2018(Xem: 7396)
Tu Tứ Đế Pháp, Bốn Chân Lý Chắc Thật, Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Phật, sau khi Chứng Đạo dẹp tan sự quấy nhiễu của ma quân ở cõi Trời Tha hóa thứ sáu vào nửa đêm ngày mùng 8 tháng 2 năm Tân-Mùi. Việt lịch Năm 2256 HBK*. Tr.BC.596. Sau Thời Hoa Nghiêm Phật đến vườn Lộc Dã Uyển truyền dạy Bốn Pháp Tứ-Đế, độ cho năm vị từng theo Phật cùng tu thuở trước, thành bậc Tỳ Khưu đắc đạo. Năm vị đó là: 1/. A Nhã Kiều Trần Như, 2/. A-Thấp Bà, (Mã-thắng) , 3/ .Bạt-Đề, 4/. Ma-Ha-Nam, 5/. Thập-Lực-Ca-Diếp. Năm Vị nghe pháp Tứ Đế rồi, tu tập chứng A La Hớn Quả. Tứ Đế Pháp: 1. Khổ Đế. 2. Tập Đế. 3. Diệt Đế. 4. Đạo Đế. -Khổ Đế, là Ác quả của Tập Đế. -Tập Đế, là tạo Nhân xấu của Khổ Đế. -Diệt Đế, là Thiện quả của Đạo đế. -Đạo Đế, là Nhân tu của Diệt Đế.
14/08/2018(Xem: 6866)
Kinh Vị Tằng Hữu của Bắc tông và Tăng Chi Bộ Kinhcủa Nam Tông đều có ghi rằng trong cuộc đời của một vị Phật CHÁNH ĐẲNG CHÁNH GIÁC có 4 lần sự kiện vi diệu này xảy ra. Mỗi lần như thế, có một hào quang vô lượng, thần diệu, thắng xa oai lực của chư Thiên hiện ra cùng khắp thế giới, gồm thế giới của chư Thiên, thế giới Ma vương và Phạm thiên, quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người. Cho đến những thế giới ở chặng giữa bất hạnh không có nền tảng, tối tăm u ám, mà tại đấy, mặt trăng, mặt trời với đại thần lực, đại oai đức như vậy cũng không thể chiếu thấu ánh sáng. Trong những cảnh giới ấy, một hào quang vô lượng, thâm diệu thắng xa uy lực chư Thiên hiện ra. Và các chúng sanh, sanh tại đấy, nhờ hào quang ấy mới thấy nhau và nói: "Cũng có những chúng sanh khác sống ở đây".
13/08/2018(Xem: 6527)
Các Phân Khoa Phật Giáo Thích Thái Hòa Tôi viết bài này, xin chia sẻ đến những ai muốn quan tâm đến lãnh vực giáo dục trong Phật giáo, nhưng chưa có điều kiện để nghiên cứu. Trong Phật giáo có năm phân khoa như sau: 1/ Phật giáo Đại chúng Thời Phật, xã hội Ấn Độ phân chia thành bốn giai cấp, gồm: - Bà-la-môn (Brāhmaṇa): Giai cấp Tăng lữ, giai cấp học giả của xã hội Ấn Độ bấy giờ. Họ tự nhận sinh ra từ miệng Phạm-thiên. Giai cấp này làm mai mối giữa thần linh với con người. Họ có sáu quyền hạn: Tự ý làm đền thờ trời; làm thầy tế để tế trời; tự ý đọc Phệ đà (veda); dạy người khác đọc Phệ đà (veda); tự bố thí và tự nhận sự bố thí.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567