Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phép quán Quan Thế Âm

23/02/201408:25(Xem: 6901)
Phép quán Quan Thế Âm

Bo_Tat_Quan_The_Am_3

PHÉP QUÁN QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT


ĐỂ SÁM HỐI VÀ THANH TỊNH NGHIỆP

Vân Nguyễn và Lozang Pema dịch

Chúng ta hãy tạo động lực bằng cách nghĩ rằng ta đã tạo nhiều ác nghiệp ở kiếp này và trong vô lượng kiếp trước. Những ác nghiệp này, khi kết trái, sẽ trở thành những nỗi đau khổ liên tục nếu ta không thanh lọc (rửa sạch) chúng. Ác nghiệp sẽ làm cho ta không đạt được hạnh phúc trong kiếp này và những kiếp sau, mà còn ngăn cản ta đạt tới tiềm năng đầy đủ của một tâm giác ngộ, và ngăn cản ta đạt tới mục tiêu cứu khổ chúng sinh, đưa họ đến giác ngộ.

Hãy ngồi thoải mái, thẳng lưng và thả lỏng các cơ bắp trong người.

Hãy đưa ý thức của ta theo hơi thở, khi hơi thở đi vào và đi ra khỏi lỗ mũi.

Hãy cảm nhận hơi thở đi sâu vào phổi ta, rồi thở ra hoàn toàn. Hơi thở luôn an trú trong hiện tại, khi theo dõi hơi thở, tâm trí ta cũng an trú trong thời điểm hiện tại.

Hãy để ra vài phút chỉ theo dõi hơi thở và để cho tâm trí được tĩnh lặng.

Hãy hình dung Đức Quan Thế Âm Bồ Tát trước mặt ta, ngang tầm mắt. Ngài đẹp tuyệt trần, thân Ngài kết hợp bằng ánh sáng. Ngài là hiện thân của tất cả từ bi và trí huệ của từng vị Phật (trong ba đời), Ngài đang cười với ta, ban tình yêu bao la trong đôi mắt Ngài.

Bồ Tát đã nguyện sẽ giúp đỡ chúng sinh khi được thỉnh cầu. Vì Ngài là một đấng giác ngộ, nên Ngài có năng lực giúp ta gột rửa sạch tội lỗi mà ta đã gây ra. Ngài mong muốn ta chỉ kinh qua hạnh phúc và không còn đau khổ nữa.

Hãy nhớ tới bất cứ điều xấu ác nào ta mới làm hoặc các thói quen xấu nào ta có, rồi phát tâm sám hối, vì ta biết rằng các điều xấu ác này nhất định sẽ đem tới nghiệp quả đau khổ trong tương lai. Hãy nghĩ lại suốt cuộc đời ta và sám hối về các điều xấu ác mà ta đã làm, dù ta nhớ hoặc không nhớ. Rồi hãy nghĩ đến các tội lỗi mà ta chắc chắn đã làm trong vô lượng kiếp trước. Hẳn là nhiều lắm. Hãy khởi tâm sám hối mạnh mẽ trong tim (thâm tâm) ta.

Từ trán của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát phát ra một luồng ánh sáng trắng đi vào đỉnh đầu của ta. Luồng ánh sáng đó đi khắp cơ thể ta, rửa sạch bất cứ thân nghiệp nào mà ta đã tạo ra từ tấm thân này. Hãy cảm nhận lòng từ bi và trí huệ của Ngài đang ngấm vào cơ thể ta và cảm thấy rằng ta được hoàn toàn thanh lọc (bởi lòng từ bi và trí huệ này).

Hãy niệm OM MANI PADME HUM 21 lần khi quán chiếu như trên.

Từ cổ họng của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát phát ra một luồng ánh sáng đỏ đi vào và bao quanh cổ họng ta, rửa sạch hết bất cứ khẩu nghiệp nào mà ta đã gây ra từ lời nói của mình. Hãy cảm nhận trí huệ và lòng từ bi của Ngài ngấm vào cổ họng ta và ta được hoàn toàn thanh lọc.

Hãy niệm OM MANI PADME HUM 21 lần khi quán chiếu như trên.

Từ tim của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát phát ra một luồng ánh sáng xanh lam đi vào và bao quanh tim ta, rửa sạch mọi ý nghiệp mà ta đã gây ra từ tâm thức và ý nghĩ của ta. Hãy cảm nhận trí huệ và lòng từ bi của Ngài ngấm vào tâm thức và cảm thấy ta được thanh lọc hoàn toàn.

Hãy niệm OM MANI PADME HUM 21 lần khi quán chiếu như trên.

Bây giờ, hãy hình dung cả ba luồng ánh sáng (trắng, đỏ và lam) cùng đi vào đỉnh đầu, cổ họng và tim ta, hoàn toàn rửa sạch các dấu vết tiêu cực nào còn sót lại.

Hãy niệm OM MANI PADME HUM 21 lần khi quán chiếu như trên.

Hãy cảm thấy tất cả những gì tiêu cực của ta đã đuợc hoàn toàn rửa sạch, tự hứa với mình và chư Phật rằng ta sẽ cố giữ để không gây nghiệp xấu trong một khoảng thời gian nào mà ta có thể giữ được. Thời gian này có thể là một giờ, một ngày, một tuần, hoặc tùy theo ta thấy có thể giữ trọn lời nguyện được bao lâu.

Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tập và tâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta. Hãy biết và cảm nhận rằng ta không bao giờ bị xa lìa khỏi Ngài, hãy cầu nguyện cho ta và tất cả chúng sinh nhanh chóng thanh lọc hết tiêu cực, từ bây giờ trở đi chỉ tham gia vào các việc thiện hảo.

Nguyện cho ta luôn nghĩ đến việc làm lợi lạc cho chúng sinh, nguyện cho ta cùng tất cả chúng sinh nhanh chóng được giác ngộ như Đức Quan Thế Âm Bồ Tát.

Ani Tencho, 
Quán Tự Tại Phật Học Viện www.chenrezig.com.au4.5.2007

Ghi chú: Xin hồi hướng công đức đến sự toàn giác của tất cả chúng sinh. Mọi sai sót là lỗi của người dịch. Quan Âm Thiền Phật Học Viện, Vân Nguyễn và Lozang Pema dịch và hiệu đính tại Brisbane, Queensland. Tài liệu phân phát nhân dịp Ani Tencho hướng dẫn bàn luận và thiền luận về đề tài trên tại Chùa Linh Sơn, 89 Rowe Terrace, Darra Queensland, vào ngày 12 tháng 5 năm 2007.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/12/2013(Xem: 16391)
Khi mới thành đạo, đức Phật đã nói: “Lạ thay tất cả chúng sanh đều có đức tính trí huệ của Như Lai mà bị vô minh che lấp nên không phát hiện ra được”. Và bản nguyện của Phật là muốn khai thị cho chúng sanh ngộ nhập được tri kiến Phật của
17/12/2013(Xem: 15426)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránh và đề phòng không kịp.
16/12/2013(Xem: 18320)
Dân tộc ta thừa hưởng nhiều tư tưởng triết lý tôn giáo cũng như chính trị và văn học của nhân loại; khởi đầu là tư tưởng Nho gia, Đạo giáo rồi đến Phật học. Suốt thời kỳ dài, "Tam giáo đồng nguyên" đã hòa hợp khá nhuần nhuyễn để dân tộc ta có một nếp sống hài hòa từ văn hóa đến kiến trúc, nghi lễ, chính trị, giáo dục, giao tế... Vì thế, những di tích còn để lại ngày nay ở các tỉnh phía Bắc và miền Trung, mỗi làng đều có Đình, Miếu và chùa trong một quần thể mỗi xã, huyện.
16/12/2013(Xem: 11416)
Có một lần, đức Phật đi ngang qua bộ lạc của người Kalama. Nghe danh tiếng của Phật, người dân của bộ lạc này tìm đến đảnh lễ và hỏi Phật, Có một số đạo sư khác đi ngang qua đây. Nhưng người nào cũng làm sáng tỏ, và ca tụng quan điểm của chính mình, nhưng lại bài xích, khinh miệt, chê bai, và xuyên tạc quan điểm người khác. Ðối với họ, bạch Thế Tôn, chúng con có những nghi ngờ phân vân: "Trong những vị đạo sư này, ai nói sự thật, ai nói dối?"
16/12/2013(Xem: 14186)
Giới là sự khác biệt căn bản giữa người nam và người nữ, liên quan đến giới tính, đến vai trò và vị trí xã hội của họ. Vấn đề bình đẳng giới được nêu lên nhằm giải quyết sự thiệt thòi của phụ nữ vì bị đối xử phân biệt
14/12/2013(Xem: 9130)
Trong thời gian gần đây có một số ý kiến cho rằng phương pháp thực hành chánh niệm, hiện pháp lạc trú, mà các nhà Phật học trình bày trong nhiều sách báo, tạp chí Phật giáo là không đúng tinh thần Phật dạy, vì những điều này gần giống với chủ trương của triết thuyết hiện sinh (Existentialism) phương Tây hơn là tư tưởng Phật giáo. Các luận điểm nói:
14/12/2013(Xem: 35961)
Năm 2006, khi tôi viết thư xin phép Thiền sư Bhante H. Gunaratana để dịch quyển tự truyện cuộc đời ngài, Hành Trình Đến Chánh Niệm (Journey To Mindfulness), Thiền sư không những đã từ bi hoan hỷ cho phép, mà còn giới thiệu về quyển sách mới của ngài, Eight Mindful Steps To Happiness. Do duyên lành đó hôm nay bản dịch của quyển sách trên được đến tay độc giả với tựa Bát Chánh Đạo: Con Đường Đến Hạnh Phúc.
14/12/2013(Xem: 10816)
Nói đến tu hành là nói đến tội phước, nếu không rõ tội phước tức là không rõ sự tu hành. Nếu người tu mà cứ lao mình trong tội lỗi, ấy là người tạo tội cho không phải là người tu hành. Mọi sự an vui và đau khổ gốc từ tội phước mà sanh ra. Vì thế muốn thấu hiểu sự tu hành chúng ta phải thấu hiểu tội phước. Tội phước là những hành động thiết thực trong cuộc sống nầy, không phải là chuyện siêu huyền mờ ảo đâu đâu. Thế nên người tu hành phải thấu đáo, phải phân rành vấn đề tội phước.
14/12/2013(Xem: 9263)
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, vườn ông Anàthapindika. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ kheo: Này các Tỷ kheo, có hai loại người ngu này. Thế nào là hai? Người có phạm tội nhưng không thấy có phạm tội và người không chấp nhận người khác như pháp phát lộ tội của mình. Này các Tỷ kheo, có hai loại người ngu này.
13/12/2013(Xem: 13145)
1. Anagarika Govinda là một Lama, người Bolivia, nguyên giảng dạy Triết học tại Đại học Naples. Từ năm 1928-1930 ông qua Sri Lanka, xuất gia với Đại đức Nyatiloka Mahathera, rồi trụ trì chùa Polgasduwa. Năm 1947, ông qua Tây Tạng, được làm đệ tử của Lama Ngawang
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]