Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phương pháp dứt trừ điều ác

18/02/201407:58(Xem: 4614)
Phương pháp dứt trừ điều ác

TVQD_ Tuong Dong Phat Thich Ca
Kinh Pháp Cú, kệ số 163 ghi lời Đức Phật nhận xét về một thực trạng rất đáng cho mọi người suy nghĩ:

“Dễ làm các điều ác
Dễ làm điều tự hại;
Còn việc lành việc tốt,
Thật tối thượng khó làm”.

Bài kệ nói cho chúng ta biết giữa hai lẽ thiện và ác, điều thiện thật khó theo mà việc ác thì dễ mắc phải. Đây là nhận xét tinh tế của Đức Phật về khuynh hướng tâm lý khá phổ biến của chúng sinh, cốt yếu nhắc nhở chúng ta phải hết sức cẩn thận trong cuộc sống để tránh rơi vào các việc ác và để nỗ lực làm các việc lành.

Vì sao Phật quan tâm nhắc nhở như vậy? Vì Phật hiểu và thương chúng sinh; do tập khí tham sân si và nghiệp chướng còn nặng nề nên chúng sinh dễ bị lôi cuốn vào con đường ác, khó theo con đường lành. Một lẽ khác là lý do tâm lý khá nông nổi hời hợt của chúng sinh, ít quan tâm xem xét cân nhắc về lẽ thiện ác, không thấy rõ sự nguy hại của điều ác và không nhận ra lợi ích của điều thiện, nên dễ rơi vào con đường ác, bỏ qua con đường lành.

Đây cũng có thể xem là tâm lý khá phổ biến của chúng ta ngày nay, hệ quả của lối tư duy chủ quan hời hợt, xem nhẹ đạo lý, không tin nhân quả, bỏ quên hướng giáo dục uốn nắn nội tâm, hậu quả là việc xấu việc ác cứ tiếp tục diễn ra khá thường xuyên và rộng khắp trong đời sống xã hội. Khi con người không tìm thấy đạo lý cao thượng nào để theo và khi pháp luật đang còn trong phạm vi tranh luận hoặc không được thực thi đúng thì việc khắc phục tình trạng xấu ác xảy ra trong đời sống cộng đồng là điều rất khó. Chúng ta đang cố gắng hoàn thiện hệ thống pháp luật; trông chờ nhiều ở trách nhiệm thực thi và chấp hành pháp luật của mọi người như là biện pháp cải thiện các tiêu cực xã hội. Như luật pháp xã hội cũng chỉ có tính cách hạn chế, răn đe và ngăn chận các biến tướng hay hiện tượng xấu ác phát sinh, còn gốc rễ của cái xấu ác ( tâm ý xấu ác hay tư tưởng bất chánh) thì không thể ngăn chữa được vì nó không thuộc phạm vi quản lý và thực thi của pháp luật. Không ai biết được người khác suy nghĩ gì trong khi đang thuyết trình hùng hồn về lẽ sống đạo đức.

Để giúp cho việc khắc phục và dứt trừ điều ác có hiệu quả, Đức Phật đề xuất rất nhiều biện pháp khác nhau, cốt yếu lưu nhắc nhở mọi người phải chú tâm xem xét, cân nhắc, nhận rõ tính chất xấu xa nguy hại của các việc ác để kiên quyết từ bỏ. Phải chú tâm xem xét, phản tỉnh và thực tập đúng cách và lâu bền thì cái ác mới được kiểm soát và đẩy lùi. Chẳng hạn, Ngài dạy chúng ta phải biết sinh tâm sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt, phải biết quay về xem xét nơi bản thân mình, cân nhắc chin chắn mọi hành vi và việc làm của mình, trước khi làm, trong khi làm và sau khi làm, xem chúng là thiện hay ác để thực hiện hoặc từ bỏ; nếu là thiện thì nên hoan hỷ tinh tấn làm them, nếu là ác thì cần phải sinh tâm xấu hổ sợ hãi mà chừa bỏ ngay.

Hoặc phải suy nghĩ tìm xem động cơ sâu kín nào thôi thúc xúi giục ta làm điều xấu ác để tập trung loại bỏ cái động cơ gốc rễ ấy, phải biết xấu hổ tự trách mắng mình và lo lắng sợ hãi người khác sẽ chỉ trích mình về việc vi phạm điều xấu ác, phải biết sợ hãi về quả báo tái sinh khổ đau của việc làm ác, phải thấy rõ sự trói buộc nguy hại khổ đau của ác nghiệp và nhận ra sự tự do lợi lạc của việc từ bỏ ác nghiệp…Tất cả điều này cho thấy Đức Phật hiểu rất rõ căn nguyên khó đoạn trừ của tệ xấu ác và do vậy các giải pháp do Ngài đề xuất là tuyệt đối căn bản và thiết yếu cho việc loại trừ hoàn toàn mọi mầm mống và nguy cơ của lối sống sai lầm xấu ác. Sau đây chúng ta nhẩm đọc và suy ngẫm lại những lời dạy hết sức căn bản của Đức Phật, cốt yếu nhấn mạnh về phương pháp hay cách thức dứt trừ gốc rễ các điều ác.

“Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:

“Do nhơn những kiết sử nào ta có thể sát sanh, ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ của các kiết sử ấy. Nếu ta sát sanh, không những ta tự trách mắng ta vì duyên sát sanh, các bậc có trí, sau khi tìm hiểu, cũng sẽ khiển trách ta vì duyên sát sanh; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta, vì duyên sát sanh. Thật là một kiết sử, Thật là một triền cái, chính sự sát sanh này. Những lậu hoặc phiền lao nhiệt não nào có thể khởi lên do duyên sát sanh, đối với vị đã từ bỏ sát sanh, những lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa”.

Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:

“Do nhơn những kiết sử nào ta có thể lấy của không cho, ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta lấy của không cho, không những ta tự trách mắng ta vì duyên lấy của không cho, các bậc có trí, sau khi tìm hiểu, cũng sẽ khiễn trách ta vì duyên lấy của không cho; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta, vì duyên lấy của không cho, thật là một kiết sử, thật là một triền cái, chính sự lấy của không cho này. Những lậu hoặc phiền lao nhiệt não nào có thể khởi lên do duyên lấy của không cho đối với vị đã từ bỏ lấy của không cho , những lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa”.

Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau (1):

“Do nhơn những kiết sử nào ta có thể nói láo, ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta nói láo, không những ta tự trách mắng ta vì duyên nói láo, các bậc có trí, sau khi tìm hiểu, cũng sẽ khiển trách ta vì duyên nói láo; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta, vì duyên nói láo. Thật là một kiết sử, thật là một triền cái, chính việc nói láo này. Những lậu hoặc phiền lao nhiệt não có thể khởi lên do duyên nói láo, đối với vị đã từ bỏ nói láo, những lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa”.

Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:

“Do nhơn những kiết sử nào ta có thể nói hai lưỡi, ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta nói hia lưỡi, không những ta tự trách mắng ta vì duyên nói hai lưỡi, các bậc có trí, sau khi tìm hiểu, cũng sẽ khiển tráchta vì duyên nói hai lưỡi; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta vì duyên nói hai lưỡi. Thật nlà một kiết sử, thật là một triền cái, chính sự nói hai lưỡi này. Những lậu hoặc phiền lao nhiệt não có thể khởi lên do duyên nói hai lưỡi, đối với vị đã từ bỏ nói hai lưỡi, những lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa”.

Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:”Do nhơn những kiết sử nào ta có thể có tham dục, ta đọan tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết sự ấy. Nếu ta tham dục, không những ta tự trách mắng ta vì duyên tham dục, các bậc có trí, sau khi tìm hiểu, cũng sẽ khiển trách ta vì duyên tham dục; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta vì duyên tham dục. Thật là một kiết sự, thật là một triền cái, chính sự tham dục này. những lậu hoặc phiền lao nhiệt não có thể khởi lên do duyên tham dục, đối với vị đã từ bỏ tham dục, các lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa”.

Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:

“Do nhơn những kiết sử nào ta có thể hủy báng sân hận, ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy.Nếu ta hủy bang sân hận, không những ta tự trách mắng ta vì duyên hủy báng sân hận , các bậc có trí, sau khi tìm hiểu, cũng sẽ khiển trách ta vì duyên hủy báng sân hận; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta vì duyên hủy bang sân hận, thật là một kiết sử, thật là một triền cái chính sự hủy báng sân hận này. Những lậu hoặc phiền lao nhiệt não có thể khởi lên do duyên hủy báng sân hận, đối với vị đã từ bỏ hủy báng sân hận, các lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa”.

Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:

“Do nhơn những kiết sự nào ta có thể có phẫn não, ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết sử ấy. Nếu ta có phẫn não, không những ta tự trách mắng ta vì duyên phẫn não, các bậc có trí, sau khi tìm hiểu, cũng sẽ khiển trách ta vì duyên phẫn não; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta vì duyên phẫn não. Thật là một kiết sử, thật là một triền cái, chính sự phẫn não này. Những lậu hoặc phiền lao nhiệt não có thể khởi lên do duyên phẫn não, đối với vị đã từ bỏ phẫn não, các lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa”.

Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau:

“Do nhơn những kiết sử nào ta có quá mạn, ta đoạn tận, thành tựu sự từ bỏ các kiết sử (2) ấy. Nếu ta có quá mạn, không những ta tự trách mắng ta vì duyên quá mạn, các bậc có trí, sau khi tìm hiểu, cũng sẽ khiển trách ta vì duyên quá mạn; và sau khi thân hoại mạng chung, ác thú sẽ chờ đợi ta vì duyên quá mạn, thật là một kiết sử, thật là một triền cái (3), chính sự quá mạn này. Những lậu hoặc phiền lao nhiệt não có thể khởi lên do duyên quá mạn, đối với vị đã từ bỏ quá mạn, các lậu hoặc phiền lao nhiệt não như vậy không còn nữa”.

Chú Thích:

1.Kinh Potaliya, Trung Bộ.

2.Kiết sử: động cơ hay động lực bó buộc, thúc ép, sai sử người ta nghĩ, nói hay làm những gì khiến khổ đau phát sinh.

3.Triền cái: những gì giam hãm ngăn che tâm trí của con người, khiến tâm trí trở nên mê mờ, u ám, điên đảo.

Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo số 120

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/12/2013(Xem: 6469)
Một đệ tử của tôi kể rằng có một nữ doanh nhân thành đạt rất quan tâm đến các giới luật đạo đức theo Phật giáo. Một lần bà tìm được một mối kinh doanh mới, có một số tiệm rượu đang rao bán. Bà biết nếu nhân cơ hội này mua các tiệm ấy, thì bà có thể được nhiều lợi lộc. Tuy nhiên có điều gì đó đã ngăn cản bà lại.
24/12/2013(Xem: 5214)
Có người cần một bảng liệt kê các giới luật để đảm bảo rằng mình hành động một cách đạo đức, chân thật. Người khác thì cần giới luật để cảm thấy chắc chắn rằng họ đã đạt được mục đích tâm linh, ở cõi trời hay được giác ngộ. Đức Phật cũng đã chỉ bày cho ta những cách hành xử để tránh khỏi đau khổ, nhưng hành động đạo đức chân chính không chỉ nằm trong các bảng điều lệ giới luật nào.
24/12/2013(Xem: 12659)
Trong một buổi giảng trước khóa lễ Trung Phong Tam Thời Hệ Niệm tổ chức tại quận Cam (Orange County, Los Angeles) ngày 22 tháng 10-2012, pháp sư Trang Trí đã giới thiệu cuốn sách Nhìn Thấu Là Trí Huệ Chân Thật. Nói về nhân duyên biên soạn cuốn sách ấy, pháp sư cho biết: Trước kia, Ngài đã thấy rất nhiều người niệm Phật vô cùng tinh tấn nhưng tới phút cuối cùng không buông xuống nổi,
23/12/2013(Xem: 9531)
Tôi có một câu chuyện muốn nói cho quý vị nghe. Chuyện này cũng với tinh thần chỉ Ông chủ chứ không có gì lạ. Một sáng, khi xả thiền ra tôi có tuyên bố với một số người rằng: "Tôi quả thực là con ngỗng chúa biết uống sữa, lọc nước chừa lại". Câu nói đó quý vị nghe lạ đời phải không? Ðây là câu nói của các Thiền sư Trung Hoa thời xưa. Lúc trước tôi học tôi tu, đọc câu đó tôi cũng biết
23/12/2013(Xem: 4226)
Chúng tôi rất vui mừng hiện diện nơi đây một lần nữa tại Xalapa, và chủ đề mà tôi đã từng được yêu cầu để nói tối nay là nghiệp báo. Dĩ nhiên, khi chúng ta nghiên cứu về một chủ đề nào đấy trong Phật giáo, điều quan trọng để có một ý tưởng nào đấy về việc tại sao chúng ta muốn tìm hiểu về nó, điều quan trọng của nó là gì, và tại sao nó phù hợp trong toàn bộ phạm vi của Phật giáo. Một cách căn bản Đức Phật nói về kinh nghiệm của mỗi người,
23/12/2013(Xem: 5831)
Lozang Ngodrub dịch, Tâm Ưu Đàm hiệu đính Có bốn cách nghiệp sẽ chín trong những kiếp tương lai: Nghiệp Chín Hoàn Toàn: là loại tái sanh mà tâm thức ta sẽ nhận lãnh khi nó tách rời thân thể ta trong giờ phút lâm chung. Hành Động Tương Đương với Nguyên Nhân: tất cả những lời nói, ý nghĩ và hành động ta tạo ra trong bất cứ kiếp sống nào là do những thói quen trong quá khứ.
21/12/2013(Xem: 7118)
Đây là danh từ Phật học nên không thể tìm thấy trong những từ điển thông thường thuộc các ngành khoa học tự nhiên hay cũng không thể tìm thấy trong các từ điển thuộc về khoa học xã hội, Kinh tế , văn học, triết học, tôn giáo học… Trong tự điển tiếng Việt của Viện Khoa Học Xã Hội và Viện Ngôn Ngữ Học Việt Nam vẫn không tìm thấy từ nầy.
18/12/2013(Xem: 13907)
Dân giàu nước mạnh xã hội văn minh phú cường khó có được, nếu người dân có nhiều bệnh tật, ngân sách chi tiêu y tế quá cao, đội ngũ sản xuất ốm yếu, học sinh sinh viên gầy, trí thông minh chưa đạt, đạo đức xã hội xuống cấp. Mà thiền, theo sự nghiên cứu của các khoa học gia và y giới quốc tế trong đó có người Việt chúng ta đều xác nhận, thiền có khả năng giúp cải tiến phần lớn các bất cập nêu trên. Đó là trọng tâm của bài viết gần đây “Thiền và canh tân đất nước”.
18/12/2013(Xem: 21995)
Nhân loại càng văn minh, thì con người càng bị cuốn hút vào các guồng máy do chính mình tạo ra. Từ đó, những khủng hoảng nầy chồng chất lên những khủng hoảng khác, tạo đủ thứ bệnh, và nhiều trường hợp, số phận, đành giao cho tử thần quyết định.
17/12/2013(Xem: 18028)
Thành thật luận 成實論 (Satyasiddhi-śāstra) cũng gọi Tattvasiddhi Śāstra 16 quyển, hoặc 20 quyển, do Ha-lê-bạt-ma (Harivarman) tạo luận, Cưu-ma-la-thập (Kumārạiva) dịch, Đàm Quỹ ghi chép, Đàm Ảnh chỉnh lý, trong khoảng đời Dao Tần, niên hiệu Hoằng Thùy thứ 13 đến 14 (411 ~ 412), thâu lục trong Đại Chính, Đại Tạng Kinh, Tập số 32, kinh số 1647.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]