Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đi Chùa những bước đầu của hành trình tâm linh

10/12/201307:48(Xem: 9599)
Đi Chùa những bước đầu của hành trình tâm linh
di_chua_1
ĐI CHÙA

Những Bước Đầu của
Hành Trình Tâm Linh(1)

Thiện Ý

Đây là một đề tài khá phức tạp và dễ bị hiểu lầm. Có câu nói: ‘Hành trình ngàn dặm khởi đầu bằng một bước đi (a journey of a thousand miles begins with a single step). Vì vậy, vấn đề cần phải nêu ra là khi nào và từ đâu chúng ta bắt đầu cất bước trên con đường tâm linh? Đa phần chúng ta đi tìm con đường tâm linh cho mình khá trễ. Trễ là do mình không cảm thấy nhu cầu cần thiết cho tâm linh lúc trẻ vì quan niệm rằng chùa chiền không thể nào giải quyết được những ưu phiền, đau khổ trong cuộc sống của tuổi trẻ. Chùa là dành cho những người lớn tuổi, xế chiều. Họ cần đến chùa là để vun bồi phước đức như làm việc thiện, bố thí, công quả .v..v… để ‘sau này’ được hưởng phước tốt lành. 

Chùa, tu viện, đạo tràng là chổ mà những người bắt đầu cảm thấy cần để tu tâm, dưỡng tánh tìm đến. Những ngỡ ngàng ban đầu khi bước vào một nơi trang nghiêm, thanh tịnh như vậy, lòng thành kính của chúng ta thật là thiết tha. Mình cảm nhận được sự thanh thản, an lạc thực sự sau mỗi lần viếng thăm. Thế là mình quyết định ‘đi chùa’ thường xuyên hơn. Nhưng, muốn tu tâm, dưỡng tánh thì bắt đầu từ đâu? Thường thì chúng ta tham dự những buổi tụng kinh, hay làm công quả, tùy theo những sinh hoạt đã sẵn có ở ngôi chùa đó. Thỉnh thoảng, có gặp quý Thầy, quý Cô nhưng còn ngại ngùng chưa dám hỏi gì nhiều, chỉ hỏi chung chung giờ giấc sinh hoạt của chùa. Khi đã bắt đầu quen thuộc với những sinh hoạt thường kỳ, mình mới bắt đầu tiếp cận nhiều với quý Thầy, Cô trong một phong thái tương đối bớt hình thức hơn.

Từ việc tham gia những sinh hoạt thường kỳ đến việc làm công quả cho chùa trong những ngày lễ lạc là một chuyển tiếp rất bình thường. Nhưng việc này có dính dáng gì đến hành trình tu tập tâm linh? Dạ thưa, có liên hệ rất gần! Bằng chứng là sau nhiều lần công quả, chúng ta thường được nhiều người khen là làm giúp chùa nhiều vậy thì phước đức sẽ nhiều lắm, đó nhe! Thế là ta hăng hái hơn lên để tích lũy thêm công đức dù không hiểu rõ là làm vậy có đúng là mình đang ‘tu’ hay không? Nhưng tin rằng có nhiều phước đức là tốt lắm rồi!

Khi bước chân vào một nơi trang nghiêm thanh tịnh như chùa, tu viện, hay đạo tràng mình có một khái niệm rằng tất cả mọi người ở đó chắc đều hiền lành, dễ thương. Thoạt đầu, ai cũng đối xử với mình rất tốt và lịch sự. Do vậy, mình có cảm tưởng rằng: “Trong đây ai cũng đều tu hành nên họ tốt vậy đó!” Cho đến khi sau vài tháng hay hơn một năm đi chùa, chúng ta bỗng nhiên phát hiện một khía cạnh khác của chùa. Trong khi làm công quả có những lúc ‘va chạm’ với những người mà mình cho là tốt, nên sự suy nghĩ lúc ban đầu đã bắt đầu lung lay khiến cho sự hăng hái thuở trước cũng dần dần giảm nhiệt! Không phải mình làm biếng hay chán mà vì lòng mình đã bắt đầu có sự bối rối, phân vân: không biết mình có hiểu sai, làm sai, hay thấy sai về việc đến chùa tu tập hay không? Tại sao chùa mà vẫn còn những sự hục hặc, tranh cạnh bên trong như vậy? 

Câu hỏi được đặt ra là: Nếu phức tạp như thế, vậy mình có cần phải đến chùa để tu tập cho tâm linh không? Nếu trả lời là không cần. Vậy thì ông bà, cha mẹ mình và các Phật tử của thế hệ trước đâu cần đổ công sức để lập chùa. Ai cũng có thể ở nhà tu tập là đủ rồi! Cũng vậy, nếu ai cũng biết cách tự học ở nhà thế thì cần gì phải xây trường học mới học được. Lập luận này không đứng vững chút nào! Chùa hay tự viện là nơi huấn luyện cho chúng ta hiểu thấu giáo nghĩa vô thượng của Phật dạy và đem những giáo pháp này ứng dụng cho tâm linh của mình để tìm thấy hạnh phúc và an lạc trong đời sống. 

‘Nhất nhật Phật tại tiền, tam niên Phật thăng thiên,’ nghĩa là ngày đầu đến chùa thấy tu theo Phật sao dễ quá! Nhưng sau 3 năm thì thấy Phật cũng mất luôn, chứ chưa nói là tu theo Phật! Do vậy mà cái sơ tâm – tâm tốt ban đầu, cần phải được giữ gìn cẩn thận vì nó chính là vốn liếng, là nền móng căn bản để mình tăng trưởng tâm linh. Nếu không, khi sơ tâm bị sứt mẻ trầm trọng sẽ khiến mình quay lưng lại với con đường tu tập, hoặc có khi trở thành kẻ Nhất-xiển-đề, không còn biết sợ tội phước, nhân quả là gì! Đây không phải là một hình thức hù dọa khiến chúng ta sợ cảnh ‘đi chùa.’ Nhưng vì giá trị vô giá của tâm linh chúng ta phải luôn luôn cảnh giác, thận trọng đừng để đánh mất viên ngọc quý đó! Chính vì vậy mà trong kinh Pháp Hoa có dạy rằng: ‘Hành giả khi tu tập nên (để tâm) ở trong nhà Như Lai, mặc áo Như lai, và ngồi tòa Như lai. Nhà Như lai là tâm từ bi, áo là hạnh nhẫn nhục, tòa là tâm xả bỏ.’ Một hình thức mặc áo giáp để phòng hộ những chướng ngại, phiền não trên hành trình tu tập cho tâm linh. 

Tất nhiên nếu mình chưa có đủ ‘nội lực’ để khoát áo nhẫn nhục, xả bỏ thì mình nên học pháp xa lìa (viễn ly) mà Phật đã dạy khi gặp những ác hành, phiền não. Tức là, không nên thân cận những nơi mình cảm thấy dễ sinh ác pháp, hay sân hận như nhà bếp, phòng ăn… và tìm đến những chổ nào khiến an lạc, hạnh phúc phát sinh như chánh điện, thiền đường, lớp học giáo lý v.v... Không phải chúng tôi muốn ám chỉ nhà bếp, phòng ăn là những chỗ xấu. Nhưng vì là nơi để tu ‘phước’ nhiều hơn tu ‘huệ’ và cũng là nơi điều kiện ‘đời’ dễ phát sinh nên khiến dễ dàng lây lan những pháp xấu. Trong các thiền viện hay đạo tràng lớn, các Thầy, cô được chia nhóm phụ trách hành đường, nghĩa là lo nấu ăn, dọn ăn, và rửa ráy cho tất cả các Tăng, Ni trong chùa, không để cho người cư sĩ phụ trách. Theo nội quy của Thiền môn, sau giờ ăn tất cả mọi người đều phải tập họp lên thiền đường, hay chính điện để hành trì tu tập, không ai được phép bén mảng ở lại nhà bếp hay phòng ăn. 

Như chúng ta đã biết chùa chiền là nơi để trấn áp, trừ diệt ma quân, không phải là nơi để chúng ma sinh trưởng. Thế nên, có điều luật như vậy không phải để ngăn cản người cư sĩ làm phước mà vì muốn giúp họ phải ‘phước, huệ song tu,’ phòng ngừa những ma pháp phát sinh trên bước đường tu học, đặc biệt là bên trong nhà chùa. Trong kinh “Ưu Bà Tắc Giới” giải thích rõ là người phụ nữ nào đã quy y Tam bảo và thọ nhận 5 giới gọi là Ưu bà di, còn người nam gọi là Ưu bà tắc. Ưu bà di tiếng Phạn là Upasika, còn Ưu bà tắc là Upasaka, nghĩa là Cận sự nữ và Cận sự nam. Cận sự là gần gũi để hộ trì và thực hành giáo pháp Phật dạy. Như vậy, việc thân cận người hiền hay bậc Thiện tri thức và xa lìa những ma pháp, và ác hữu là đúng theo chánh pháp.

Những ‘va chạm’ ở chùa chỉ là thử thách xem mình đã học và làm được gì sau vài tháng đi chùa. Đa phần có sự va chạm này là vì khi vào chùa chúng ta cũng mang theo những hệ lụy, phiền não, kinh nghiệm ‘ngoài đời’ của mình theo. Nên mặc dù thân ở chùa nhưng tâm vẫn còn rất ‘đời’. Chúng ta chưa xóa kịp những cạnh tranh, hơn thua, danh lợi vốn dĩ đã theo chúng ta suốt những năm qua! Sự va chạm này là một cơ hội lớn cho chúng ta thử nghiệm với chính mình. Khi chúng ta hiểu được điều này và vẫn tiếp tục giữ ‘Bồ đề tâm kiên cố, chí tu học vững bền,’ thì đây mới chính là lúc mình bắt đầu cất bước trên con đường tu tập tâm linh vậy! 

San Jose, tháng 9 Mùa Trung thu, 2013

Thiện Ý

di_chua_2
ĐI CHÙA

Những Bước Đầu của Hành Trình Tâm Linh(2)

Thiện Ý

Như tất cả những người đi chùa, chúng ta đến chùa để tìm sự an tịnh. Đó là nhu cầu chính của người đi chùa. Phần nhiều, chúng ta đi chùa vì mình đang gặp khổ nạn nên muốn tìm một nơi yên tịnh nào đó để ‘lánh nạn.’ Do vậy, tâm tư của họ chưa chắc đã hoàn toàn thanh thản nên cũng có những lúc nóng nảy, sân si. Va chạm (bất an) là một điều ‘cần thiết’ cho những người bắt đầu đi chùa. Nhưng khi chưa chuẩn bị tâm lý, chúng ta có thể bị sốc mạnh nên trong những ngày đầu đến chùa tránh những nơi thị phi, đông đảo. Và nên tập trung niệm Phật, tụng kinh, hay thiền quán nhiều hơn.

Có một hiện tượng tâm lý xúc cảm mà trong kinh Phật gọi là tùy miên (anusaya). Hiện tượng tâm lý này thường nằm tiềm tàng bên dưới lớp vỏ ý thức của chúng ta và chúng có khuynh hướng lèo lái chúng ta chạy theo những nhận thức sai lầm do tâm còn vướng mắc của mình tạo ra. Chẳng hạn như sân tùy miên phát xuất từ những xúc cảm khổ đau nên khiến mình dễ sân hận, bực tức đối với những điều không vừa ý, như việc mình đi chùa mà không tìm thấy an lạc.

Tuy nhiên, an lạc và va chạm không phải là 2 mặt chống trái nhau mà là 2 mặt bổ túc cho nhau. Vì va chạm là thầy dạy cho chúng ta cách sống an lạc. Phật dạy trong Kinh Pháp cú:

"Vui thay, chúng ta sống, 
Không bệnh, giữa ốm đau! 
Giữa những người bệnh hoạn, 
Ta sống, không ốm đau."

Ta sống không ốm đau, không có nghĩa là mình sẽ không bao giờ đau ốm. Nhưng mình biết sống ‘không bệnh, giữa ốm đau’ mình biết tu nên ốm đau không làm mình mất đi chánh niệm để hiểu rằng ốm đau rồi cũng sẽ qua đi! 

Cái tâm thức của chúng ta đã quen việc thổi phồng những kinh nghiệm khổ đau, phiền não đến một cấp độ quá đáng khiến mình trở nên hoảng hốt, sợ hãi. Do vậy, mà căn bệnh thêm nặng. Bệnh, khổ, bất an, va chạm, v.v.. cũng vậy! Nói chung, tâm mình hay ‘thêm mắm, dậm muối’ vào những kinh nghiệm tiêu cực, xấu xa khiến cho cái kết quả trông thật là xấu tệ! Tất nhiên, không ai muốn đi tìm sự bất an, va chạm bao giờ! Nhưng chính việc đi chùa giúp mình cách tu để cái bất an, va chạm không làm mình khổ đau nhiều. Nếu mình cứ tiếp tục trốn chạy và chỉ đi tìm những nơi ‘không có’ bất an, va chạm thì suốt đời mình sẽ không tu được gì vì đi chùa là để học cách đối diện với bất an, va chạm hầu tìm ra cách để đối trị chúng. 

Như Phật có dạy: ‘đi tìm cái an ngay trong cái bất an; đi tìm cái hết khổ ngay trong cái khổ!’ Như mình bị đau lưng, hay nhức đầu, chính cái chổ đau lưng hay nhức đầu đó là nơi làm mình khổ. Muốn hết đau, hết nhức mình phải trị ngay chổ đã tạo ra cái nhức, cái đau đó. Khi cái đau, cái nhức hết là mình hết khổ. Nên có một câu chuyện ngụ ngôn về một người đi tìm cái chìa khóa bị mất. Anh này quẩn quanh tìm cái chìa khóa mất chung quanh cái đèn đường. Có người hỏi: ‘anh mất chìa khóa ở đâu?’ Anh bảo: ‘Ở cái xó đằng kia! Chổ không có ánh sáng đèn đường.’ Người kia bảo: ‘Vậy sao anh không đến đó mà kiếm, lại kiếm ở đây?’ Anh bảo: ‘Vì ở đây có ánh sáng của đèn!’ Đa số chúng ta là vậy! Thay vì đi tìm cách chữa lành vết đau ngay nơi gây ra đau đớn, ta tìm cách trốn tránh chổ gây ra đau khổ, hy vọng ‘không thấy mặt, thì không thấy đau,’ như anh nọ mất chìa khóa trong xó tối mà đi kiếm ở chỗ có đèn! 

Trong giới bình dân mình có câu nói thật là dí dỏm mà hay: ‘Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa!’ Theo thiển ý, sỡ dĩ tu chùa là thứ ba vì ở chùa tương đối dễ tu hơn, nhà và chợ. Nơi thanh tịnh trang nghiêm và khung cảnh vắng lặng của thiền môn dù sao cũng làm mình lắng dịu đôi chút. Thế mà mình vẫn không tìm thấy bình an! Vậy là căn bệnh bất an của mình coi như không còn thuốc chữa! Một ít va chạm ở chùa có đáng là bao nếu ta học cách xả bỏ và xem những va chạm này là những thử thách trên con đường tu tập tâm linh của mình. Vả lại, sự bình an không phải đến từ bên ngoài mà chính là từ tâm mình. Cho nên mới có chuyện ‘khéo tu thì nổi, mà vụng tu thì chìm’ là vậy!

Đường tu đòi hỏi phải bỏ nhiều công phu. Hễ khéo biết dụng công thì an lạc liền có mặt, bằng không thì khổ não theo hoài! Tổ Huệ Năng có dạy: ‘ Nếu nói về Phật tánh thì không có gì khác biệt giữa một kẻ ngu và một ông thánh. Một niệm giác ngộ thì người đó sẽ thành Phật. Một niệm si mê thì người kia sẽ thành một kẻ ngu.’ Một khi ngộ giống như một ngọn đèn chiếu sáng lên trong tâm thức khiến mình thấy rõ đâu là chánh giác, đâu là vô minh. Tu tập không giống như mình uống thuốc người khác chế tạo ra, mà do chính tự mình chế tác thuốc cho mình để trị căn bệnh của mình. Thuốc đây chính là niệm. Nếu là niệm giác thì mình hết khổ, thành thánh. Nếu mình niệm si thì làm một kẻ ngu!

Niệm ở đây chính là những ý nghĩ, ý tưởng (thoughts). Đa phần khoảng 90 phần trăm ý tưởng của chúng ta là những ý tưởng tiêu cực và xấu ác, hay còn gọi là niệm bất thiện, vọng niệm. Cho nên chúng ta phải tu tập hành trì để duy trì chánh niệm, tức là những ý tưởng tích cực, lành thiện. Nhờ đi chùa nên chúng ta không dám để những tà niệm, vọng niệm phát sanh nhiều. Vì vậy, va chạm là một cơ duyên để mình học cách duy trì chánh niệm, không để những suy nghĩ tiêu cực, xấu xa làm mình trở thành một người ngu, tiếp tục vướng mắc vào những phiền não, khổ đau.

Trong Bốn Thánh đế, Phật dạy về khổ và con đường diệt khổ vì Ngài biết rằng khổ chính là chất liệu nâng cao giá trị của hạnh phúc, an lạc. Nếu không có khổ thì hạnh phúc, an lạc không có giá trị gì. Hơn nữa, trên thế gian này khổ đau, phiền não là một điều tất yếu phải có, dù cho chúng ta có bỏ ra bao nhiêu tiền của để mua hạnh phúc, và xua đuổi khổ đau. Khổ là một sự thực (Khổ đế) dù chúng ta có nhìn nhận hay không! Khổ đau và hạnh phúc như hai mặt của một tờ giấy, mình không thể đòi lấy cái khổ đi và chỉ để cái hạnh phúc lại vì khi xé bỏ cái mặt khổ đi thì cái mặt hạnh phúc cũng mất luôn!

Va chạm khi đi chùa cũng vậy! Tất nhiên ai cũng muốn tìm an lạc khi đi chùa. Nhưng khi đi chùa để tu tâm, dưỡng tánh chúng ta phải chấp nhận và học cách sống với hai mặt trái và phải ở chùa, cũng như ở bất cứ nơi nào khác. Thế giới chúng ta đang sống bao gồm cà những điều mình thích và không thích. Có một câu chuyện về một người lặn lội tìm một vị Thiền sư danh tiếng để giúp an tâm cho anh ta. Khi đến gặp vị Thiền sư, anh ta liền than thở và xin được giúp an tâm. Vị Thiền sư liền bảo anh ta đem tâm ra để Ngài an cho. Anh ta bối rối không biết làm sao!? Đi chùa để tìm sự bình an. Nhưng thật sự nếu tâm mình chưa an thì có ở ngay nơi ‘Tịnh độ’ cũng bất an như thường! Chính vậy mà đi chùa học hỏi là học cách an tâm cho chính mình nên va chạm, bất an không còn là cái xấu, cái dở mà chính là cái đối tượng cần thiết để mình thực tập cách an tâm vậy!

San Jose, Mùa Thu – 2013

Thiện Ý
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/10/2024(Xem: 1004)
Thân-Khẩu-Ý (身-口-意; P: Kāya-Vacī-Mano; S: Kāya-Vak-Mana; E: Body-Speech-Thought) là 3 thứ tách biệt nơi con người, nhưng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó, Ý là yếu tố có sự tác động đến cả Thân và Khẩu. Nếu một hành động của Thân hay lời nói của Khẩu mà không có Ý tác động vào thì khó mà có kết quả.
19/10/2024(Xem: 504)
Ba-la-mật = Ba-la-mật-đa 波羅蜜多 (P: pāramī; S: pāramitā; E: perfection) được dịch nghĩa là Đáo bỉ ngạn (到彼岸: đạt đến bờ bên kia), Độ (度), Cứu cánh (究竟: thực tại tối hậu). Ba-la-mật đặc trưng cho hành động của bậc giác ngộ vượt lên nhị nguyên đối đãi, vượt thoát các dính mắc, các phiền não gây ra bởi Tham-Sân-Si, nghĩa là mọi hành động của bậc giác ngộ đều hợp với chân lý Duyên khởi, đồng nghĩa là mọi hành động này đều xuất phát từ một nội tâm Vô ngã, được gọi là Duy tác (惟作; P: Kiriyā; S: Kriyā; E: Only-action).
19/06/2024(Xem: 1337)
Đọc tụng Chú Đại Bi chẳng phải để cầu phước mà nương theo oai lực của ngài Quán Thế Âm Bồ Tát để tạo an vui lợi lạc cho đời. Do đó, theo học hỏi riêng tư: -Khi đến chùa, với tâm Đại Bi bạn sẽ không thấy ai là Phật tử thông minh, ai là Phật tử ngu độn. Bạn sẽ không thấy ai là Phật tử giàu sang, ai là Phật tử nghèo hèn. Bạn sẽ không thấy ai đẹp mà cũng chẳng thấy ai xấu. Bạn nhớ lời Phật dạy trong Kinh Viên Giác, “Không kính người trì giới, không ghét người phá giới, không trọng người học lâu, không khinh người mới học. Vì sao vậy? Tất cả là tính giác. Ví như con mắt sáng, thấy rõ cảnh trước mắt. Cái sáng ấy tròn khắp, không có yêu, không có ghét.”
01/10/2023(Xem: 1480)
Nhiều Phật tử thường nói với nhau như một lời nhắn nhủ: "Tiền tài danh vọng dù giàu nứt đố đổ vách, hằng tỉ đô la, siêu xe, dinh thự, quyền cao chức trọng...khi nhắm mắt xuôi tay chẳng mang được gì ngoài nghiệp“. Vậy nghiệp là gì, là quá trình trong cuộc sống dù vô tình hay cố ý, không chỉ kiếp này mà kể luôn những kiếp trước, những hành động dù thiện hay ác đều tạo nên nghiệp. Nghiệp tốt đến từ ý tưởng và hành vi tốt sẽ có kết quả tốt. Trái lại nghiệp xấu sẽ mang lại khổ đau. Đơn giản vậy thôi.
09/09/2023(Xem: 2302)
Lộ Trình Tu Tập: Giới, Định và Tuệ
04/11/2022(Xem: 3081)
Sau hai ngày 14 và 15 tháng 5 năm 2022, nhằm ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch, đúng vào ngày Đản Sanh năm 2646 của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, trước khi trở về Hamburg, Hòa Thượng Phương Trượng Tổ Đình Viên Giác tặng cho tôi cuốn “Tôi Đọc Đại Tạng Kinh.” Đây là tác phẩm 69 của ngài vào độ tuổi 73. Trên xe lửa, tôi vội đọc ngay lời Dẫn nhập của Thầy ở đầu sách. Thầy viết: “Tất cả chúng ta đều bình đẳng về thời gian, dầu nam hay nữ, Tăng hay Ni, người lớn hay trẻ thơ..., mỗi ngày đều có đúng 24 tiếng đồng hồ như nhau, không hơn không kém. Tuy nhiên có nhiều người làm được rất nhiều việc trong khoảng thời gian 24 tiếng đồng hồ đó, mà cũng có nhiều người đã bỏ phí thời gian một cách vô ích...”
23/09/2022(Xem: 2562)
Tại Pháp, cơn đại dịch thực sự bắt đầu vào khoảng tháng ba năm 2020, với các lịnh phong tỏa, hạn chế những sinh hoạt bình thường của dân chúng như mua bán, di chuyển, tụ họp, ngay cả các công ty, công sở, các văn phòng cũng phải hạn chế số nhân viên, nhân công…Nhưng oái ăm thay, tại các bệnh viện thì bịnh nhân quá đông mà bác sĩ, y tá, phụ tá, cho đến hạ tầng cơ sở, các lao công lo phần vệ sinh, quét dọn cũng không đủ để đảm nhiệm cho xuể mọi công việc. Khởi đầu nạn dịch quả thật đem lại nhiều lo âu cho mọi người. Nhưng rồi, phía chính phủ cũng như dân chúng, ai cũng phải cố gắng, hi sinh để đương đầu với đại nạn. Và dần dà những khó khăn ban đầu cũng được khắc phục.
20/09/2022(Xem: 2693)
Kẻ trí tuệ ít lỗi lầm và khi phạm lỗi thì nhận biết và tu sửa. Kẻ ngu si không biết lỗi lầm và khi nhận biết thì biện minh mà không hề tu sửa. -Kẻ trí tuệ trước mọi sự việc đều tìm hiểu và phân tích lợi-hại. Còn kẻ ngu si chỉ nhìn thấy lợi mà không thấy hại. -Kẻ trí tuệ biết đo lường thời thế. Còn kẻ ngu si thì làm bừa, khi thất bại lại đổ lỗi cho Trời. Tức khí nhảy ra đâm chém dễ. Nhẫn nhục chờ thời khó, “Khảng khái cần vương dị. Thung dung tựu nghĩa nan.” (Lý Trần Quán Tiến Sĩ đời Lê Trung Hưng) -Kẻ ngu si kết bạn bừa bãi, thường rủ rê đi các nơi ăn chơi như phòng trà ca vũ, quán nhậu, hát karaoke, hoặc tổ chức ăn nhậu ồn ào ở nhà khiến vợ con phải hầu hạ, buồn phiền. Rồi chỉ vì một cử chỉ hay lời nói gì đó mà vung dao giết nhau. Chính vì thế mà kẻ ngu si thường đem giặc cướp về nhà. Kẻ trí tuệ tiếp bạn một cách trang trọng. thanh lịch, lễ độ và chừng mực. “Quân tử chi giao đạm nhược thủy. Tiểu nhân chi giao điềm như mật”.
15/06/2022(Xem: 3713)
Bản ngã là một chủ đề từ lâu các nhà chú giải và quý giảng sư thường nhắc đến. Người viết chưa đủ khả năng lạm bàn, nhưng sở dĩ bài viết này có được…đó nhờ mục hỏi đáp của Trung tâm Hộ Tông với tiêu đề “ BẢN NGà VÀ ĐẠI NGÔ qua các câu hỏi của tứ chúng từ khắp nơi trong và ngoài nước gửi về và đã được Hoà Thượng Viên Minh hồi đáp.
24/02/2022(Xem: 8704)
Tác giả tác phẩm này là Tỳ Kheo Sujato, thường được ghi tên là Bhikkhu Sujato, một nhà sư Úc châu uyên bác, đã dịch bốn Tạng Nikaya từ tiếng Pali sang tiếng Anh. Bhikkhu Sujato cũng là Trưởng Ban Biên Tập mạng SuttaCentral.net, nơi lưu trữ Tạng Pali và Tạng A Hàm trong nhiều ngôn ngữ -- các ngôn ngữ Pali, Sanskrit, Tạng ngữ, Hán ngữ, Việt ngữ và vài chục ngôn ngữ khác – trong đó có bản Nikaya Việt ngữ do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Tạng Pali, và bản A-Hàm Việt ngữ do hai Hòa Thượng Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch từ Hán Tạng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]