Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đi Chùa những bước đầu của hành trình tâm linh

10/12/201307:48(Xem: 9604)
Đi Chùa những bước đầu của hành trình tâm linh
di_chua_1
ĐI CHÙA

Những Bước Đầu của
Hành Trình Tâm Linh(1)

Thiện Ý

Đây là một đề tài khá phức tạp và dễ bị hiểu lầm. Có câu nói: ‘Hành trình ngàn dặm khởi đầu bằng một bước đi (a journey of a thousand miles begins with a single step). Vì vậy, vấn đề cần phải nêu ra là khi nào và từ đâu chúng ta bắt đầu cất bước trên con đường tâm linh? Đa phần chúng ta đi tìm con đường tâm linh cho mình khá trễ. Trễ là do mình không cảm thấy nhu cầu cần thiết cho tâm linh lúc trẻ vì quan niệm rằng chùa chiền không thể nào giải quyết được những ưu phiền, đau khổ trong cuộc sống của tuổi trẻ. Chùa là dành cho những người lớn tuổi, xế chiều. Họ cần đến chùa là để vun bồi phước đức như làm việc thiện, bố thí, công quả .v..v… để ‘sau này’ được hưởng phước tốt lành. 

Chùa, tu viện, đạo tràng là chổ mà những người bắt đầu cảm thấy cần để tu tâm, dưỡng tánh tìm đến. Những ngỡ ngàng ban đầu khi bước vào một nơi trang nghiêm, thanh tịnh như vậy, lòng thành kính của chúng ta thật là thiết tha. Mình cảm nhận được sự thanh thản, an lạc thực sự sau mỗi lần viếng thăm. Thế là mình quyết định ‘đi chùa’ thường xuyên hơn. Nhưng, muốn tu tâm, dưỡng tánh thì bắt đầu từ đâu? Thường thì chúng ta tham dự những buổi tụng kinh, hay làm công quả, tùy theo những sinh hoạt đã sẵn có ở ngôi chùa đó. Thỉnh thoảng, có gặp quý Thầy, quý Cô nhưng còn ngại ngùng chưa dám hỏi gì nhiều, chỉ hỏi chung chung giờ giấc sinh hoạt của chùa. Khi đã bắt đầu quen thuộc với những sinh hoạt thường kỳ, mình mới bắt đầu tiếp cận nhiều với quý Thầy, Cô trong một phong thái tương đối bớt hình thức hơn.

Từ việc tham gia những sinh hoạt thường kỳ đến việc làm công quả cho chùa trong những ngày lễ lạc là một chuyển tiếp rất bình thường. Nhưng việc này có dính dáng gì đến hành trình tu tập tâm linh? Dạ thưa, có liên hệ rất gần! Bằng chứng là sau nhiều lần công quả, chúng ta thường được nhiều người khen là làm giúp chùa nhiều vậy thì phước đức sẽ nhiều lắm, đó nhe! Thế là ta hăng hái hơn lên để tích lũy thêm công đức dù không hiểu rõ là làm vậy có đúng là mình đang ‘tu’ hay không? Nhưng tin rằng có nhiều phước đức là tốt lắm rồi!

Khi bước chân vào một nơi trang nghiêm thanh tịnh như chùa, tu viện, hay đạo tràng mình có một khái niệm rằng tất cả mọi người ở đó chắc đều hiền lành, dễ thương. Thoạt đầu, ai cũng đối xử với mình rất tốt và lịch sự. Do vậy, mình có cảm tưởng rằng: “Trong đây ai cũng đều tu hành nên họ tốt vậy đó!” Cho đến khi sau vài tháng hay hơn một năm đi chùa, chúng ta bỗng nhiên phát hiện một khía cạnh khác của chùa. Trong khi làm công quả có những lúc ‘va chạm’ với những người mà mình cho là tốt, nên sự suy nghĩ lúc ban đầu đã bắt đầu lung lay khiến cho sự hăng hái thuở trước cũng dần dần giảm nhiệt! Không phải mình làm biếng hay chán mà vì lòng mình đã bắt đầu có sự bối rối, phân vân: không biết mình có hiểu sai, làm sai, hay thấy sai về việc đến chùa tu tập hay không? Tại sao chùa mà vẫn còn những sự hục hặc, tranh cạnh bên trong như vậy? 

Câu hỏi được đặt ra là: Nếu phức tạp như thế, vậy mình có cần phải đến chùa để tu tập cho tâm linh không? Nếu trả lời là không cần. Vậy thì ông bà, cha mẹ mình và các Phật tử của thế hệ trước đâu cần đổ công sức để lập chùa. Ai cũng có thể ở nhà tu tập là đủ rồi! Cũng vậy, nếu ai cũng biết cách tự học ở nhà thế thì cần gì phải xây trường học mới học được. Lập luận này không đứng vững chút nào! Chùa hay tự viện là nơi huấn luyện cho chúng ta hiểu thấu giáo nghĩa vô thượng của Phật dạy và đem những giáo pháp này ứng dụng cho tâm linh của mình để tìm thấy hạnh phúc và an lạc trong đời sống. 

‘Nhất nhật Phật tại tiền, tam niên Phật thăng thiên,’ nghĩa là ngày đầu đến chùa thấy tu theo Phật sao dễ quá! Nhưng sau 3 năm thì thấy Phật cũng mất luôn, chứ chưa nói là tu theo Phật! Do vậy mà cái sơ tâm – tâm tốt ban đầu, cần phải được giữ gìn cẩn thận vì nó chính là vốn liếng, là nền móng căn bản để mình tăng trưởng tâm linh. Nếu không, khi sơ tâm bị sứt mẻ trầm trọng sẽ khiến mình quay lưng lại với con đường tu tập, hoặc có khi trở thành kẻ Nhất-xiển-đề, không còn biết sợ tội phước, nhân quả là gì! Đây không phải là một hình thức hù dọa khiến chúng ta sợ cảnh ‘đi chùa.’ Nhưng vì giá trị vô giá của tâm linh chúng ta phải luôn luôn cảnh giác, thận trọng đừng để đánh mất viên ngọc quý đó! Chính vì vậy mà trong kinh Pháp Hoa có dạy rằng: ‘Hành giả khi tu tập nên (để tâm) ở trong nhà Như Lai, mặc áo Như lai, và ngồi tòa Như lai. Nhà Như lai là tâm từ bi, áo là hạnh nhẫn nhục, tòa là tâm xả bỏ.’ Một hình thức mặc áo giáp để phòng hộ những chướng ngại, phiền não trên hành trình tu tập cho tâm linh. 

Tất nhiên nếu mình chưa có đủ ‘nội lực’ để khoát áo nhẫn nhục, xả bỏ thì mình nên học pháp xa lìa (viễn ly) mà Phật đã dạy khi gặp những ác hành, phiền não. Tức là, không nên thân cận những nơi mình cảm thấy dễ sinh ác pháp, hay sân hận như nhà bếp, phòng ăn… và tìm đến những chổ nào khiến an lạc, hạnh phúc phát sinh như chánh điện, thiền đường, lớp học giáo lý v.v... Không phải chúng tôi muốn ám chỉ nhà bếp, phòng ăn là những chỗ xấu. Nhưng vì là nơi để tu ‘phước’ nhiều hơn tu ‘huệ’ và cũng là nơi điều kiện ‘đời’ dễ phát sinh nên khiến dễ dàng lây lan những pháp xấu. Trong các thiền viện hay đạo tràng lớn, các Thầy, cô được chia nhóm phụ trách hành đường, nghĩa là lo nấu ăn, dọn ăn, và rửa ráy cho tất cả các Tăng, Ni trong chùa, không để cho người cư sĩ phụ trách. Theo nội quy của Thiền môn, sau giờ ăn tất cả mọi người đều phải tập họp lên thiền đường, hay chính điện để hành trì tu tập, không ai được phép bén mảng ở lại nhà bếp hay phòng ăn. 

Như chúng ta đã biết chùa chiền là nơi để trấn áp, trừ diệt ma quân, không phải là nơi để chúng ma sinh trưởng. Thế nên, có điều luật như vậy không phải để ngăn cản người cư sĩ làm phước mà vì muốn giúp họ phải ‘phước, huệ song tu,’ phòng ngừa những ma pháp phát sinh trên bước đường tu học, đặc biệt là bên trong nhà chùa. Trong kinh “Ưu Bà Tắc Giới” giải thích rõ là người phụ nữ nào đã quy y Tam bảo và thọ nhận 5 giới gọi là Ưu bà di, còn người nam gọi là Ưu bà tắc. Ưu bà di tiếng Phạn là Upasika, còn Ưu bà tắc là Upasaka, nghĩa là Cận sự nữ và Cận sự nam. Cận sự là gần gũi để hộ trì và thực hành giáo pháp Phật dạy. Như vậy, việc thân cận người hiền hay bậc Thiện tri thức và xa lìa những ma pháp, và ác hữu là đúng theo chánh pháp.

Những ‘va chạm’ ở chùa chỉ là thử thách xem mình đã học và làm được gì sau vài tháng đi chùa. Đa phần có sự va chạm này là vì khi vào chùa chúng ta cũng mang theo những hệ lụy, phiền não, kinh nghiệm ‘ngoài đời’ của mình theo. Nên mặc dù thân ở chùa nhưng tâm vẫn còn rất ‘đời’. Chúng ta chưa xóa kịp những cạnh tranh, hơn thua, danh lợi vốn dĩ đã theo chúng ta suốt những năm qua! Sự va chạm này là một cơ hội lớn cho chúng ta thử nghiệm với chính mình. Khi chúng ta hiểu được điều này và vẫn tiếp tục giữ ‘Bồ đề tâm kiên cố, chí tu học vững bền,’ thì đây mới chính là lúc mình bắt đầu cất bước trên con đường tu tập tâm linh vậy! 

San Jose, tháng 9 Mùa Trung thu, 2013

Thiện Ý

di_chua_2
ĐI CHÙA

Những Bước Đầu của Hành Trình Tâm Linh(2)

Thiện Ý

Như tất cả những người đi chùa, chúng ta đến chùa để tìm sự an tịnh. Đó là nhu cầu chính của người đi chùa. Phần nhiều, chúng ta đi chùa vì mình đang gặp khổ nạn nên muốn tìm một nơi yên tịnh nào đó để ‘lánh nạn.’ Do vậy, tâm tư của họ chưa chắc đã hoàn toàn thanh thản nên cũng có những lúc nóng nảy, sân si. Va chạm (bất an) là một điều ‘cần thiết’ cho những người bắt đầu đi chùa. Nhưng khi chưa chuẩn bị tâm lý, chúng ta có thể bị sốc mạnh nên trong những ngày đầu đến chùa tránh những nơi thị phi, đông đảo. Và nên tập trung niệm Phật, tụng kinh, hay thiền quán nhiều hơn.

Có một hiện tượng tâm lý xúc cảm mà trong kinh Phật gọi là tùy miên (anusaya). Hiện tượng tâm lý này thường nằm tiềm tàng bên dưới lớp vỏ ý thức của chúng ta và chúng có khuynh hướng lèo lái chúng ta chạy theo những nhận thức sai lầm do tâm còn vướng mắc của mình tạo ra. Chẳng hạn như sân tùy miên phát xuất từ những xúc cảm khổ đau nên khiến mình dễ sân hận, bực tức đối với những điều không vừa ý, như việc mình đi chùa mà không tìm thấy an lạc.

Tuy nhiên, an lạc và va chạm không phải là 2 mặt chống trái nhau mà là 2 mặt bổ túc cho nhau. Vì va chạm là thầy dạy cho chúng ta cách sống an lạc. Phật dạy trong Kinh Pháp cú:

"Vui thay, chúng ta sống, 
Không bệnh, giữa ốm đau! 
Giữa những người bệnh hoạn, 
Ta sống, không ốm đau."

Ta sống không ốm đau, không có nghĩa là mình sẽ không bao giờ đau ốm. Nhưng mình biết sống ‘không bệnh, giữa ốm đau’ mình biết tu nên ốm đau không làm mình mất đi chánh niệm để hiểu rằng ốm đau rồi cũng sẽ qua đi! 

Cái tâm thức của chúng ta đã quen việc thổi phồng những kinh nghiệm khổ đau, phiền não đến một cấp độ quá đáng khiến mình trở nên hoảng hốt, sợ hãi. Do vậy, mà căn bệnh thêm nặng. Bệnh, khổ, bất an, va chạm, v.v.. cũng vậy! Nói chung, tâm mình hay ‘thêm mắm, dậm muối’ vào những kinh nghiệm tiêu cực, xấu xa khiến cho cái kết quả trông thật là xấu tệ! Tất nhiên, không ai muốn đi tìm sự bất an, va chạm bao giờ! Nhưng chính việc đi chùa giúp mình cách tu để cái bất an, va chạm không làm mình khổ đau nhiều. Nếu mình cứ tiếp tục trốn chạy và chỉ đi tìm những nơi ‘không có’ bất an, va chạm thì suốt đời mình sẽ không tu được gì vì đi chùa là để học cách đối diện với bất an, va chạm hầu tìm ra cách để đối trị chúng. 

Như Phật có dạy: ‘đi tìm cái an ngay trong cái bất an; đi tìm cái hết khổ ngay trong cái khổ!’ Như mình bị đau lưng, hay nhức đầu, chính cái chổ đau lưng hay nhức đầu đó là nơi làm mình khổ. Muốn hết đau, hết nhức mình phải trị ngay chổ đã tạo ra cái nhức, cái đau đó. Khi cái đau, cái nhức hết là mình hết khổ. Nên có một câu chuyện ngụ ngôn về một người đi tìm cái chìa khóa bị mất. Anh này quẩn quanh tìm cái chìa khóa mất chung quanh cái đèn đường. Có người hỏi: ‘anh mất chìa khóa ở đâu?’ Anh bảo: ‘Ở cái xó đằng kia! Chổ không có ánh sáng đèn đường.’ Người kia bảo: ‘Vậy sao anh không đến đó mà kiếm, lại kiếm ở đây?’ Anh bảo: ‘Vì ở đây có ánh sáng của đèn!’ Đa số chúng ta là vậy! Thay vì đi tìm cách chữa lành vết đau ngay nơi gây ra đau đớn, ta tìm cách trốn tránh chổ gây ra đau khổ, hy vọng ‘không thấy mặt, thì không thấy đau,’ như anh nọ mất chìa khóa trong xó tối mà đi kiếm ở chỗ có đèn! 

Trong giới bình dân mình có câu nói thật là dí dỏm mà hay: ‘Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa!’ Theo thiển ý, sỡ dĩ tu chùa là thứ ba vì ở chùa tương đối dễ tu hơn, nhà và chợ. Nơi thanh tịnh trang nghiêm và khung cảnh vắng lặng của thiền môn dù sao cũng làm mình lắng dịu đôi chút. Thế mà mình vẫn không tìm thấy bình an! Vậy là căn bệnh bất an của mình coi như không còn thuốc chữa! Một ít va chạm ở chùa có đáng là bao nếu ta học cách xả bỏ và xem những va chạm này là những thử thách trên con đường tu tập tâm linh của mình. Vả lại, sự bình an không phải đến từ bên ngoài mà chính là từ tâm mình. Cho nên mới có chuyện ‘khéo tu thì nổi, mà vụng tu thì chìm’ là vậy!

Đường tu đòi hỏi phải bỏ nhiều công phu. Hễ khéo biết dụng công thì an lạc liền có mặt, bằng không thì khổ não theo hoài! Tổ Huệ Năng có dạy: ‘ Nếu nói về Phật tánh thì không có gì khác biệt giữa một kẻ ngu và một ông thánh. Một niệm giác ngộ thì người đó sẽ thành Phật. Một niệm si mê thì người kia sẽ thành một kẻ ngu.’ Một khi ngộ giống như một ngọn đèn chiếu sáng lên trong tâm thức khiến mình thấy rõ đâu là chánh giác, đâu là vô minh. Tu tập không giống như mình uống thuốc người khác chế tạo ra, mà do chính tự mình chế tác thuốc cho mình để trị căn bệnh của mình. Thuốc đây chính là niệm. Nếu là niệm giác thì mình hết khổ, thành thánh. Nếu mình niệm si thì làm một kẻ ngu!

Niệm ở đây chính là những ý nghĩ, ý tưởng (thoughts). Đa phần khoảng 90 phần trăm ý tưởng của chúng ta là những ý tưởng tiêu cực và xấu ác, hay còn gọi là niệm bất thiện, vọng niệm. Cho nên chúng ta phải tu tập hành trì để duy trì chánh niệm, tức là những ý tưởng tích cực, lành thiện. Nhờ đi chùa nên chúng ta không dám để những tà niệm, vọng niệm phát sanh nhiều. Vì vậy, va chạm là một cơ duyên để mình học cách duy trì chánh niệm, không để những suy nghĩ tiêu cực, xấu xa làm mình trở thành một người ngu, tiếp tục vướng mắc vào những phiền não, khổ đau.

Trong Bốn Thánh đế, Phật dạy về khổ và con đường diệt khổ vì Ngài biết rằng khổ chính là chất liệu nâng cao giá trị của hạnh phúc, an lạc. Nếu không có khổ thì hạnh phúc, an lạc không có giá trị gì. Hơn nữa, trên thế gian này khổ đau, phiền não là một điều tất yếu phải có, dù cho chúng ta có bỏ ra bao nhiêu tiền của để mua hạnh phúc, và xua đuổi khổ đau. Khổ là một sự thực (Khổ đế) dù chúng ta có nhìn nhận hay không! Khổ đau và hạnh phúc như hai mặt của một tờ giấy, mình không thể đòi lấy cái khổ đi và chỉ để cái hạnh phúc lại vì khi xé bỏ cái mặt khổ đi thì cái mặt hạnh phúc cũng mất luôn!

Va chạm khi đi chùa cũng vậy! Tất nhiên ai cũng muốn tìm an lạc khi đi chùa. Nhưng khi đi chùa để tu tâm, dưỡng tánh chúng ta phải chấp nhận và học cách sống với hai mặt trái và phải ở chùa, cũng như ở bất cứ nơi nào khác. Thế giới chúng ta đang sống bao gồm cà những điều mình thích và không thích. Có một câu chuyện về một người lặn lội tìm một vị Thiền sư danh tiếng để giúp an tâm cho anh ta. Khi đến gặp vị Thiền sư, anh ta liền than thở và xin được giúp an tâm. Vị Thiền sư liền bảo anh ta đem tâm ra để Ngài an cho. Anh ta bối rối không biết làm sao!? Đi chùa để tìm sự bình an. Nhưng thật sự nếu tâm mình chưa an thì có ở ngay nơi ‘Tịnh độ’ cũng bất an như thường! Chính vậy mà đi chùa học hỏi là học cách an tâm cho chính mình nên va chạm, bất an không còn là cái xấu, cái dở mà chính là cái đối tượng cần thiết để mình thực tập cách an tâm vậy!

San Jose, Mùa Thu – 2013

Thiện Ý
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2021(Xem: 26047)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
13/11/2021(Xem: 13827)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/10/2020(Xem: 5136)
Bài viết này kính tri ân lời dạy của Sư Phụ Viên Mình trong bài pháp thoại “10 ba la mật “ và sự khuyến khích của Thượng Toạ Thích Nguyên Tạng “hãy thọ trì đọc tụng Kinh Bát Nhã Ba La Mật và nghe các bài tổng luận “ đang được đăng tải trên trangnhaquangduc Kính đa tạ và tri ân quý Ngài và kính xin phép được trình bày những điều con học được và kính xin quý Chư Tôn Đức và các bạn đạo tha thứ cho sự mạo muội của hậu bối vì dám “múa rìu qua mắt “, nhưng con trộm nghĩ .
16/09/2020(Xem: 5588)
Một Phật tử tại gia như tôi không biết gặp duyên phước nào để có thể được ghi lại vài cảm nghĩ về một bài viết mà cốt lõi chính yếu nằm trong Duy Thức Học , một bộ môn khó nhất cho những ai đã theo Đại Thừa Phật Giáo chỉ đứng hàng thứ hai sau Bộ kinh Đại Bát Nhã và hơn thế nữa những lời dẫn chứng lại trích từ quý Cao Tăng Thạc Đức rất uyên bác trác tuyệt về giáo lý Phật Đà như Đệ lục Tăng Thống HT Thích Tuệ Sỹ và Cố Thiền Sư Nhật Bản Daisetz Teitaro Suzuki.
12/09/2020(Xem: 6937)
Cây danh mộc gumtree là đặc sản của Úc có nhiều loại như ta thường biết qua cây khuynh diệp, vì giống cây này đã được biến chế thành, dầu khuynh diệp trị cảm mạo hiệu quả. Chúng thường mọc tự nhiên thành rừng thiên nhiên, thân to cao, có loại vạm vỡ oai phong như lực sỹ trên võ đài, cho bóng mát cùng nhiều công dụng khác như xay thành bột chế tạo giấy các loại đa dụng, cũng như dùng làm cột trụ giăng dây điện trong nhiều thập niên qua, và đồng thời cũng là thức ăn ưa thích của loài mối (termites) nên con người hơi ngán mấy “ông thần nước mặn” này lắm. Từ này tự chế ám chỉ loài côn trùng bé nhỏ hay cắn phá làm hại hoa màu của giới nhà nông dãi dầu một nắng hai sương như chuột, chim, châu chấu, sâu rầy… cũng để gán cho những kẻ ngang bướng đều bị dán nhãn hiệu đó.
17/06/2020(Xem: 9614)
Tuy được duyên may tham dự khoá tu học Phật Pháp Úc Châu kỳ 19 tổ chức tại thủ đô Canberra và Ngài Ôn Hội Chủ thường xuyên hiện diện với hội chúng, nhưng tôi chưa bao giờ có dịp đảnh lễ Ngài dù đã nhiều lần làm thơ xưng tán hoặc bày tỏ cảm nghĩ của mình khi đọc được tác phẩm được in thành sách hoặc trên các trang mạng Phật Giáo .
08/05/2020(Xem: 4661)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một con người có thật trong lịch sử văn minh nhân loại. Ngài tên là Tất Đạt Đa, dòng họ Thích Ca, sinh vào ngày trăng tròn tháng Năm, năm 624 trước dương lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni thành Ca Tỳ La Vệ miền trung Ấn Độ, bây giờ là nước Nepal. Thân phụ là Vua Tịnh Phạn trị vì vương quốc Thích Ca, Thân mẫu là Hoàng Hậu Ma Gia. Thân mẫu Ngài qua đời sớm, Ngài được Vương Phi Kế mẫu là em ruột của Mẹ, Dì Ma Ha Ba Xà Ba Đề thương yêu và nuôi dưỡng như con ruột.
15/03/2020(Xem: 4671)
Những điều nhận thức sai lầm theo thường thức phổ thông đều cho là sự thật; những điều nhận thức sai lầm như thế nào qua câu chuyện Điên và Không Điên mà tôi nhớ mường tượng như trong Kinh Bách Dụ có kể. Câu chuyện Điên và Không Điên như thế này: Ở vùng Thiên Sơn và Thông Lãnh, có một quốc gia nhỏ, trong đó tất cả thần dân uống nhằm nước suối có chất độc nên bị bệnh điên; ông vua hợp với quần thần thảo luận cách cứu chữa cho thần dân; nhóm thần dân bị bệnh điên cùng nhau tâu với vua của họ rằng, họ không có điên và ngược lại họ bảo ông vua mới bị bệnh điên; khi họ được vua trị hết bệnh thì họ mới biết họ bị bệnh điên. Câu chuyện này dụng ý cho chúng ta biết, có một số người nhận thức sai lầm mà không biết lại bảo người khác nhận thức sai lầm, không khác nào mình bị bệnh điên mà lại chụp mũ bảo người khác bị bệnh điên. Những điều nhận thức sai lầm, đại khái được trình bày như sau:
01/03/2020(Xem: 13843)
Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được Phật cho đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.
28/11/2019(Xem: 8200)
Ấn độ là một trong những quốc gia nổi tiếng trên thế giới vì đất rộng, người đông, có dãi Hy mã lạp sơn cao nhất thế giới, có một nền văn minh khá cao và lâu đời, con số 0, số Pi (3,1416...) do người Ấn sử dụng đầu tiên trong toán học, Kinh Vệ Đà đã được người Ấn sáng tạo từ 1800 đến 500 năm trước công nguyên, Ấn Độ là quê hương của đức Phật, hay nói khác hơn đó là nơi đạo Phật phát sinh, ngày nay đã lan tràn khắp thế giới vì sự hành trì và triết thuyết của đạo Phật thích ứng với thời đại. Do đó việcTime New Roman tìm hiểu về Ấn Độ là một điều cần thiết.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]