Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Phật, Nhà Cách Mạng Vĩ Đại

11/08/201304:31(Xem: 7782)
Đức Phật, Nhà Cách Mạng Vĩ Đại

Sakya_Muni_57


ĐỨC PHẬT- NHÀ CÁCH MẠNG

TỊNH MINH

Có thể nói từ lúc đản sanh cho đến ngày nhập diệt, cuộc đời Đức Phật là kết tinh của những chuỗi ngày cách mạng hào hùng.

Theo sử sách, vừa mở mắt chào đời, thái tử Tất-đạt-đa (Siddhartha) đã đứng dậy, ngoảnh mặt nhìn bốn hướng, rồi đi bảy bước, tay trái chỉ lên trời, tay phải chỉ xuống đất, nói rằng: “Trên trời, dưới trời chỉ có Ta là chí tôn”. Xong Ngài nói tiếp: “Từ vô lượng kiếp đến nay, phen này là hết”. Hai lời tuyên bố đó có tính cách quyết định mục tiêu hành động của Ngài: đoạn trừ phiền não, quét sạch vô minh, giải thoát sanh tử, chứng đắc niết bàn, thanh tịnh an lạc.

Chúng ta hãy tìm hiểu vai trò lãnh đạo và sách lược tiến công nhằm đạt đến mục tiêu tối thượng qua các cuộc cách mạng của Ngài.

  1. Cách Mạng Xã Hội:

Trước khi Phật ra đời, Ấn Độ là nước nhiễu nhương, khốn khổ. Giống dân du mục A-lỵ-a (Arya) đã nhanh nhẹn chinh phục thổ dân Đạt-la-tỳ-đồ (Dravida). Họ thiết lập trật tự xã hội, tạo ra luật Mã-nổ (Manu), độc đoán chia dân Ấn ra làm bốn giai cấp:

1. Giai cấp Bà-la-môn (Brahman), tác giả pháp điển Mã-nổ, là giai cấp cao quý nhất, độc quyền về học thuật, tư tưởng và chủ trì tế lễ.

2. Giai cấp Sát-đế-lỵ (Ksatriya), giữ độc quyền về chính trị theo thể chế cha truyền con nối. Họ có toàn quyền sinh sát.

3. Giai cấp Phệ-xá (Vaisya), gồm giới nông, công, thương, không được quyền học hỏi, sống nai lưng ra làm việc để phục vụ cho hai giai cấp giáo sĩ và quý tộc. Họ tha hồ bị áp bức, bóc lột.

4. Giai cấp Thủ-đà-la (Sudra), gồm các thổ dân tiền trú và giống người Đạt-la-tỳ-đồ bại trận. Đây là giai cấp bần cùng, sống trong tủi nhục, bi đát.

Chế độ phân chia giai cấp và người bóc lột người đã làm cho xã hội Ấn Độ ngày càng băng hoại.

Thái tử Tất-đạt-đa, con người bằng xương bằng thịt, sanh ra và lớn lên như muôn ngàn người khác, và mặc dù sống trong nhung lụa, quyền thế, Ngài đã sớm ý thức được cảnh bất công, gian ác của giai cấp thống trị và số kiếp đọa đày, khốn nạn của giai cấp bị trị, nên khi còn ngồi tọa thiền dưới gốc cây Bồ đề, Ngài đã khẳng định nguyên lý của cuộc cách mạng ấy là: “Đại địa chúng sanh giai hữu Như Lai trí tuệ đức tánh”, tức là hết thảy chúng sanh đều có đức tánh trí tuệ Như Lai. Và sau khi đắc đạo, thấy rõ thực tướng của vạn pháp là Vô Thường – Khổ – Không – Vô Ngã, thấy chúng sanh quay cuồng trong tam đồ lục đạo, thấy mọi hiện tượng thế gian đều sanh thành và huỷ diệt theo tiến trình Thành – Trụ – Hoại – Không, Ngài thốt lên những lời hùng tráng như tiếng sư tử giữa núi rừng dày đặc:

Lang thang bao kiếp sống,

Ta tìm kẻ xây nhà,

Tìm mãi vẫn không ra,

Nên luân hồi đau khổ.

Hỡi kẻ làm nhà kia,

Ta thấy mặt ngươi rồi,

Rui mè đòn dông gãy,

Ngươi hết làm nhà thôi,

Tâm ta chừ tịch tịnh,

Tham ái dứt bặt rồi.

(PC. 153, 154)

Với lòng từ bi cứu độ chúng sanh, với ý thức không ai có quyền tước đoạt quyền sống, quyền bình đẳng, và quyền mưu cầu hạnh phúc của người khác, Ngài xác quyết : “Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh : tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”, “Tứ chúng xuất gia đồng quy thích thị: bốn giai cấp xuất gia đều mang họ Thích”. Thích có nghĩa là diệt trừ vô minh, phát huy trí tuệ cho mình và cho mọi người. Chính vì thế mà Ngài đã dang tay đón nhận một Ưu-ba-ly (Upali) sống nghề hớt tóc, thuộc giai cấp Thủ-đà-la vào giáo hội, về sau chứng quả A la hán, thành một trong mười đệ tử vĩ đại của Phật, đứng đầu về giới luật; một tiện nữ Bát-cát-đế (Pakati) lăn loàn, sau cũng chứng quả A la hán; rồi đến vũ nữ Ku-va-la-da (Kuvalaya) chuyên nghề bán phấn buôn hương; Ương-quật-ma-la (Angulimàla) cuồng tín giết người đến loạn trí; vua A-xà-thế (Ajatasatru) tham quyền đến sát hại vua cha là quốc vương Tần-bà-sa-la (Bimbisara) cùng vô số công hầu khanh tướng, bá tánh lê dân, tất cả đều được Phật hóa độ theo hạnh: vô duyên đại từ và đồng thể đại bi.

Rõ là không tốn một viên đạn, không mất một mũi tên, không đổ một giọt máu, Đức Phật đã giảng dạy đạo lý như thật làm đảo lộn cái mà giai cấp Bà-la-môn cho là nề nếp vua quan, kỷ cương luân lý và trật tự xã hội. Đức Phật đã lên án chế độ giai cấp, phong kiến và bóc lột. Con người là con người, không có con người Bà-la-môn hay con người Sát-đế-lỵ. Nhờ tôn chỉ cách mạng, mục tiêu hành động và ý thức giác ngộ của quần chúng, xã hội Ấn Độ dần dần được đổi mới, chế độ giai cấp bị tan rã, nhân dân sống trong cảnh thuần lương, an lạc.

II. Cách Mạng Tư Tưởng:

Nhờ giáo pháp của Phật, quần chúng nhân dân Ấn Độ đã hoàn thành cuộc các mạng xã hội và chuyển sang cuộc cách mạng văn hóa tư tưởng. Đây là cuộc cách mạng nòng cốt, nhằm giải quyết tự ngã. Đức Phật đã chỉ rõ đâu là căn nguyên của khổ đau, sinh tử, và vạch ra phương hướng đi đến giải thoát.

Lịc sử tư tưởng Ấn Độ cho thấy trong thời Đức Phật có 62 hệ phái thần học và triết học khác nhau, luận chiến quyết liệt về nguồn gốc của nhân sinh và vũ trụ. Các luận sư tha hồ triển khai học thuyết: nào là duy vật duy thần, ngẫu nhiên tiền định, tương đối hoài nghi, thường kiến đoạn kiến v.v… Dân chúng hoang mang ngơ ngác không biết đâu mà theo.

Như nước trong đại dương chỉ có một vị mặn, giáo pháp của Phật cũng chỉ có một hương vị giải thoát. Lời Phật dạy là chánh pháp, là chân lý tuyệt đối. Phật dạy khổ, nguyên nhân của khổ, sự chấm dứt khổ, và con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ. Phật dạy các pháp do duyên sanh, không có thật tướng, gọi là vô ngã. Chân lý ấy xưa nay không ai có thể phủ nhận. Chính vì thế mà Xá-lợi-phất (Sariputra) sau khi nghe Mã-thắng (Assaji) đọc bốn câu kệ thì bỏ thầy bỏ đạo, lên đường theo Phật không chút do dự.

Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên (Maudgalyayana) là hai nhà biện tài và thần thông nổi tiếng thuộc nhóm lục sư ngoại đạo. Một hôm Xá-lợi-phất gặp Mã-thắng đang đi khất thực trong thành Vương-xá, thấy phong thái uy nghi tự tại của Mã-thắng, Xá-lợi-phất cảm phục, đến gần hỏi đạo, được Mã-thắng giảng lý duyên sanh gồm trong một bài kệ:

Các pháp do duyên sanh,

Lại cũng do duyên diệt,

Thầy ta là Đức Phật,

Thường thuyết giảng như vậy.

Xá-lợi-phất nghe xong thì bừng tỉnh, sung sướng xin quy y Phật, sau đó đưa Mục-kiền-liên và hàng trăm đạo hữu đến thọ giáo Đức Thế Tôn. Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên trở thành hai cao đệ trí tuệ và thần thông đệ nhứt của đấng đại giác Thế Tôn. Sáu mươi hai trường phái tư tưởng cũng dần dần quy phục Ngài.

Đức Phật đã làm một cuộc cách mạng tư tưởng tận căn để. Ngài đã chỉ cho chúng sanh thấy vô minh là nguồn gốc của mọi đau thương khốn khổ trên đời. Do đó, mỗi Phật tử phải là một chiến sĩ dũng mãnh, tinh tấn, mặc giáp trụ giới đức, mang cung kiếm định tuệ, bắn phá rừng vô minh, nhổ gốc rễ tham ái, tiêu diệt địch sân si. Bởi vì làm cách mạng văn hóa tư tưởng là làm cách mạng tự thân, tự tâm thanh tịnh thì tư tưởng trong sáng, ngôn ngữ nhu hòa, hành động ái kính, xã hội do đó ngày càng trở nên thanh bình, an lạc. Đúng là:

Tự ta gây ác nghiệp,

Tự ta nhiễm cấu trần,

Tự ta tránh ác nghiệp,

Tự ta tịnh thân tâm,

Nhiễm tịnh do ta cả,

Không ai thanh tịnh ai.

(PC. 165)

Đức Phật không hô hào đốt cháy, tẩy chay cái gọi là văn hóa lai căn, tư tưởng tiêu cực. Ngài chỉ cho ta thấy đâu là căn nguyên của khổ đau và giải thoát, xung đột và an lạc. Cuộc cách mạng xã hội và tư tưởng văn hóa của Ngài không những thành công ở Ấn Độ cách đây 25 thế kỷ mà sẽ còn ảnh hưởng và thành công trong dòng lịch sử của nhân loại.

(Đã đăng trong Nguyệt san Giác Ngộ số 14, tháng 5/1997, kính mừng Phật Đản 2541)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/09/2012(Xem: 5914)
Đây là câu hỏi và đề tài thật phức tạp luôn gây tranh cãi trong Đạo Phật. Bởi vậy, khi tìm trong sách hoặc search trên mạng, quí vị sẽ không tìm thấy câu trả lời thật rõ ràng và thật thỏa mãn cho mình. Ngược lại các câu trả lời luôn luôn rất khác nhau, rất mơ hồ và …rất bế tắc! Nói theo kiểu Thiền Tông Trung Quốc là “không thể giải bày” (bất khả ngôn thuyết).
27/08/2012(Xem: 10179)
Trước cuộc ra đi vĩ đại nhất trong lịch sử loài người của Bồ-tát Siddharttha, Yasodhara đã gạt lệ nhớ thương và đơn thân nuôi dưỡng Rahula ròng rã bảy năm trường trong cô đơn, khắc khoải.
21/08/2012(Xem: 3399)
Trong sự tái sinh luân hồi, nhân quả tốt xấu, đúng sai, ân oán trong hiện tại sẽ tiếp tục đến đời sau, nên khi gặp duyên phù hợp nó liền tác động mạnh mẽ, khiến ta phải chấp nhận mà không biết nguyên nhân! Nhiều người không hiểu nên tin có đấng thần linh thượng đế, đủ quyền năng ban phước giáng họa?
15/08/2012(Xem: 7374)
Truyền thống Kadampa của Phật giáo Tây Tạng xuất hiện trong thế kỷ mười một vô cùng tích cực và sáng tạo. Trường phái này do Đạo sư Ấn Độ Atisha (982-1054) sáng lập. Ngài đến Tây Tạng năm 1042. Mặc dù trường phái này không tồn tại thật bền vững như một truyền thống độc lập, nó đã thâm nhập vào các trường phái khác và vì thế để lại một ảnh hưởng lâu dài.
14/08/2012(Xem: 4976)
Một người đàn ông trên 60 tuổi khi thấy một chiếc xe tang chạy qua, ông ta lặng lẽ bước xuống xe, lấy chiếc mũ bảo hiểm đang đội trên đầu cầm tay rồi đứng thẳng người, đầu hơi cúi một chút. Ông cứ đứng vậy, yên lặng chờ xe tang đi qua mới ngước mặt lên.Người phụ nữ đứng bên cạnh thấy thế mới tỏ vẻ ngạc nhiên hỏi: “Ủa, ông quen với người chết hay sao mà đứng cúi đầu chào tiễn biệt họ vậy?”. Ông trả lời: “Tôi không hề quen biết hay bà con với người đã mất, nhưng cha mẹ tôi dạy rằn
14/08/2012(Xem: 3276)
Một ngày đã qua ta biết mình vẫn còn đang sống, một tháng đã qua ta biết mình vẫn còn đó, một năm đã qua ta biết mình vẫn còn đây, cũng với hình hài đó nhưng tất cả đều đổi mới một cách kỳ diệu, đôi khi ta vẫn không nhận ra mình đã... mới rất nhiều từ ý nghĩ, lời nói cho đến hành động. Dáng vấp hình hài này cũng mới hoàn toàn. Có thể đó là một nụ cười tươi với những nếp nhăn ẩn giấu trong sâu kín hoặc là mái tóc đã điểm bạc để mình và người trở nên già dặn hơn…nhưng vẫn còn đó với những bâng khâng và trăn trở, vết hằn nơi khóe mắt, biểu hiện của sự lo lắng bất an trong tâm khảm mọi người.
05/08/2012(Xem: 7194)
Ai trong chúng ta được sinh ra trong đời này rồi, một ngày nào đó cũng phải từ giã tất cả những gì có liên hệ với ta trong một quãng thời gian nhất định của cuộc đời này để phải ra đi. Có kẻ đi lên, có người đi xuống; có kẻ đi ngang và có người lại ngược dòng sinh tử, trở lại thế giới này để cứu khổ độ mê. Tất cả đều do nghiệp lực và nguyện lực của mỗi người trong chúng ta.
04/08/2012(Xem: 11450)
Hằng năm, nhằm vào ngày rằm tháng tư (âm lịch), tất cả mọi người Phật tử trên toàn thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng đều tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm ngày Đức Bồ Tát Sidddhattha đản sinh, Đức Bồ Tát Sidddhattha chứng đắc thành Đức Phật Gotama và Đức Phật Gotama tịch diệt Niết Bàn.
02/08/2012(Xem: 16915)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
30/07/2012(Xem: 14461)
Nói về Giáo, trong Kinh Trung A Hàm (Bahuvedaniya-Majjhima Nikaya) số 57, đức Phật đã chỉ dẫn Mười loại Hạnh phúc Tối thượng, sắp xếp thứ tự do kết quả tu chứng, trong đó có: Đoạn thứ 6. “ Này Anandà. Nơi đây vượt hẳn lên khỏi mọi tri giác và hình thể (Sắc), không còn phản ứng của giác quan, hoàn toàn không chú tâm đến mọi sự khác nhau của tri giác ….” Đoạn thứ 10. “Nơi đây vượt hẳn lên khỏi cảnh giới Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng (Chẳng Phải Tưởng, Chẳng Phải Chẳng Có Tưởng), đạt đến sự chấm dứt mọi Tri giác và Cảm giác (Sãnnavedayita Niroda).”
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]