Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sáu ba-la-mật

05/12/201209:38(Xem: 3450)
Sáu ba-la-mật

phat thich ca 3

SÁU BA LA MẬT

Nguyễn Thế Đăng

Sáu ba-la-mật là Bồ-tát hạnh. Bồ-tát hạnh gồm có hai sự tích tập: tích tập phước đức là làm lợi lạc cho người khác và tích tập trí huệ là xóa tan bóng tối vô minh để đi đến sự sáng tỏ hoàn toàn của tâm thức.

Một trong vài cuốn kinh lưu hành đầu tiên ở Việt Nam (Giao Chỉ) là do một người Việt là sư Khương Tăng Hội dịch. Kinh này có thể được dịch ở Đông Ngô, nhưng chắc chắn ngài có gởi về quê hương ngài để lưu hành. Bản kinh đó là Lục Độ Tập Kinh,nói về sáu độ, tức là sáu ba-la-mật. Từ khởi thủy Phật giáo Việt Nam đã bắt đầu bằng con đường Bồ-tát hạnh, để xuất hiện những triều đại Bồ-tát như Thiền sư Vạn Hạnh và Lý Công Uẩn (đời Lý), Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông (đời Trần), và con đường ấy kéo dài cho đến ngày nay, mặc cho bao nhiêu thịnh suy của đất nước.

I. Từ ngọn đến gốc

Ba-la-mật đầu tiên là Bố thí. Bố thí thì rõ ràng là sự tích tập phước đức rồi. Ba-la-mật cuối cùng là Trí huệ (hay phiên âm từ tiếng Sanscrit là Bát-nhã). Cực bên này là phước đức do bố thí bởi lòng bi. Cực bên kia là trí huệ do thực hành trí huệ quán chiếu tánh Không. Bốn ba-la-mật giữa là Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn và Thiền định đều có sự giao hòa giữa phước đức và trí huệ.

Khi đã tròn đủ sáu ba-la-mật, vị ấy có đầy đủ phước đức và trí huệ. Tâm của vị ấy là sự hợp nhất của trí huệ và đại bi.

Sự hoàn thiện phước đức và trí huệ của sáu ba-la-mật đều dựa vào luật nhân quả.

1. Bố thí ba-la-mật:Bố thí có vẻ là việc dễ làm nhất. Chưa có ai chưa từng cho hay biếu tặng người khác một cái gì. Ngay trong đời sống bình thường, bố thí là một bổn phận làm nên đời sống: cha mẹ bố thí cho con cái tiền lương, công sức, sức khỏe của mình. Cha mẹ bố thí cho con cái, và cũng nhận được từ con cái niềm vui, ý nghĩa làm cha mẹ. Trong kinh tế thị trường, sản xuất, buôn bán, trao đổi là cho và nhận. Nếu mọi người không muốn cho ai cái gì hết và nhận lại cái gì hết thì xã hội cũng không có. Trong bố thí, người ta nhận ra người khác, ai cũng muốn vui sướng và tránh khổ đau như mình. Đó là lòng từ bi.

Bố thí gồm tài thí, cho tiền và vật; vô úy thí, cho sự không sợ hãi, chẳng hạn ngăn không cho một con chó rượt một em bé. Và pháp thí, cho chánh pháp, mà dễ thấy là sự thuyết pháp.

Theo luật nhân quả, bố thí thì tâm thường hoan hỷ, không có khổ do sợ hãi thiếu thốn, sanh ở đâu cũng được giàu có, địa vị lớn, bạn bè giúp đỡ, quyến thuộc danh giá…

Bố thí là ba-la-mật đầu tiên. Ở trong hàng thánh thì bậc Sơ địa chủ yếu tu Bố thí ba-la-mật, còn Trí huệ Ba-la-mật được tu chủ yếu ở địa thứ sáu Hiện tiền địa. Nhưng bố thí không phải chỉ ở giai đoạn đầu của con đường Bồ-tát, sau đó được bỏ đi. Chẳng hạn bố thí pháp thì phải ở địa thứ chín, Thiện huệ địa, mới hoàn hảo. Bố thí có mặt trong các ba-la-mật khác. Chẳng hạn thiền định (ba-la-mật thứ năm) xong thì người ta hồi hướng, nghĩa là bố thí công đức ấy cho những người khác.

Bố thí có mặt khắp đầu và cuối con đường. Bố thí không chỉ là nguyên nhân mà còn là kết quả của giác ngộ. Vì bố thí là một biểu lộ của đại bi, mà mục đích của Bồ-tát là tròn đủ hai cái, trí huệ và đại bi.

2. Giữ giới ba-la-mật:Giữ giới làm cho thân tâm trong sạch bằng cách không phạm vào điều xấu ác (nhiếp luật nghi giới). Giữ giới là làm những điều thiện (nhiếp thiện pháp giới). Giữ giới là làm lợi ích tốt đẹp cho những người khác (nhiêu ích hữu tình giới).

Do giới mà có thân thể tốt đẹp, tâm trí sáng suốt, được sanh vào nơi cao cấp.

Giữ giới như vậy là tạo ra một xã hội thiện lành an vui.

3. Nhẫn nhục ba-la-mật:Thực hành nhẫn thì được phước như có thân thể khỏe mạnh, không bệnh tật, không có người chống đối thù oán, được nhiều người giúp đỡ nghe theo, quyến thuộc lớn (vì nhẫn thì có nhiều người theo)…

Nhẫn là chịu đựng một cách bình an những điều không muốn nhận mà người khác bắt mình phải nhận. Nhưng nếu nhận như vậy mà cho lại lòng từ bi thì được phước của từ bi.

Phối hợp với trí, nhẫn sẽ dẫn đến giải thoát, tức là vô sanh pháp nhẫn.

Ba ba-la-mật đầu này có nhiều hàm lượng của phước, người xưa gọi là Tăng thượng sinh đạo, con đường của đời sống thịnh vượng trong ba cõi thế gian.

Ba ba-la-mật sau được gọi là Quyết định thắng đạo,con đường đi đến trí huệ, giải thoát.

4. Tinh tấn Ba-la-mật:Tinh tấn thông cả hai đầu phước đức và trí huệ. Người ta có thể tinh tấn trong việc làm lợi ích cho người như bố thí. Người ta cũng có thể tinh tấn trong việc quán chiếu của Trí huệ Bát-nhã, tức là thắp sáng ngọn đèn trí huệ.

Tinh tấn làm tăng thêm thích thú, hoan hỷ, an vui, vì tinh tấn trong điều thiện thì các điều xấu ác không còn nhiễu loạn phá hoại.

5. Thiền định Ba-la-mật:Thiền định làm tâm an ổn, tĩnh lặng. Trí huệ quán sát nương vào sự tĩnh lặng này mà hoạt động.

Thiền định làm cho thân thể khỏe mạnh, trong tâm thì những phiền não bị nép phục, do đó thân tâm được an vui (lợi mình), và tâm thanh tịnh an vui thì không muốn gây lo buồn, tổn hại cho người, trái lại, tâm đủ khỏe mạnh để làm lợi lạc cho người khác (lợi người).

6. Trí huệ (Bát-nhã) Ba-la-mật:Sự sử dụng trí huệ liên tục quán sát đưa chúng ta đến giải thoát. Giải thoát là cởi bỏ những ràng buộc tự mình trói lấy mình do chấp ngã và chấp pháp. Vì trí huệ quán sát khiến dần dần chúng ta thấy được các sự vật và chính ta đều do duyên sanh, nên chúng không tự hữu, không có tự tánh, và do đó là tánh Không.

Chính trí huệ soi thấy trực tiếp và triệt để tánh Không đưa đến giải thoát. Hơn nữa, giải thoát ngay khi đang bố thí, giữ giới, nhẫn nhục… nghĩa là không bị trói buộc vào việc bố thí hay làm điều thiện, vào đối tượng được bố thí, và vào phước đức của bố thí. Giải thoát ngay khi đang hành động là một đặc điểm của Trí huệ ba-la-mật.

Trí huệ này là nền tảng, là căn bản của đạo Phật. Vì bố thí, giữ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, tập trung, thậm chí đến mức khổ hạnh, những tôn giáo khác đều có. Sự khác biệt duy nhất giữa Phật giáo và các tôn giáo khác là mọi hành vi tôn giáo, kể cả cử hành khóa lễ, sám hối…, tất cả những hành động này được làm với trí huệ soi thấy tánh Không, được làm trong tánh Không.

Chúng ta cần thấy sự quan trọng đặc biệt của Trí huệ ba-la-mật. Chính trí huệ này làm cho năm hạnh kia thành “ba-la-mật”. Ba-la-mật nghĩa là “rốt ráo, giải thoát, đến bờ bên kia, hoàn toàn”. Chính tánh Không làm cho năm hạnh trước thành rốt ráo, giải thoát, hoàn toàn, nghĩa là thành năm ba-la-mật. Thế nên hệ thống kinh Bát-nhã, tuy luôn luôn nói đầy đủ cả sáu ba-la-mật, nhưng vẫn nhấn mạnh và nói nhiều nhất đến Trí huệ ba-la-mật. Vì thế, những bộ kinh đó có tên chung là Bát-nhã ba-la-mật, tức là Trí huệ ba-la-mật.

Kinh Kim Cương,thuộc về hệ thống kinh Bát-nhã, có nói: “Bồ-tát không trụ sắc thanh hương vị xúc pháp mà bố thí… Nếu Bồ-tát không trụ tướng mà bố thí, thì phước đức ấy là không thể tính đếm đo lường”.

Nếu không trụ sắc thanh hương vị xúc pháp mà bố thí thì người ấy trong khi bố thí đã ở trong tánh Không, mà tánh Không là phước đức vô lượng vô biên, không thể đo lường.

Từ đoạn kinh này chúng ta có thể thấy ra ba con đường. Trụ nơi sắc thanh hương vị xúc pháp mà bố thí, đó là con đường của người đời, của đời sống thế gian, của phước đức hữu hạn vì thuộc thế gian.Không trụ nơi sắc thanh hương vị xúc pháp nhưng cũng không tạo phước đức, không bố thí, đó là con đường của Thanh Văn, chỉ nhắm đến giải thoát. Không trụ nơi sắc thanh hương vị xúc pháp nhưng vẫn bố thí, vẫn không bỏ phước đức bằng cách làm lợi lạc cho người khác, đó là con đường Bồ-tát. Đây là con đường hợp nhất phước và trí, con đường đưa phước đức hữu hạn thành phước đức vô hạn của tánh Không.

II. Từ gốc đến ngọn

Khi đã thực hành được quán chiếu Bát-nhã, nghĩa là quán chiếu tánh Không, thì Trí huệ ba-la-mật trở thành cội gốc, nền tảng của năm ba-la-mật trước, bởi vì tánh Không là Nền tảng, cũng là Con đường và Quả của thực hành Đại thừa.

Khi ấy bố thí, giữ giới, nhẫn nhục… đều nương dựa vào, y cứ vào, an trụ trong Trí huệ Bát-nhã:

“Này Xá Lợi Phất! Có đại Bồ-tát lúc thực hành Bát-nhã ba-la-mật an trụ trong Bố thí ba-la-mật để thanh tịnh Nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo rỗng không chẳng sanh tâm tham tiếc vậy.

Này Xá Lợi Phất! Có đại Bồ-tát lúc thực hành Bát-nhã ba-la-mật an trụ trong Giữ giới ba-la-mật để thanh tịnh Nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo rỗng không chẳng dính mắc nơi có tội cùng không tội vậy.

Này Xá Lợi Phất! Có đại Bồ-tát lúc thực hành Bát-nhã ba-la-mật an trụ trong Nhẫn nhục ba-la-mật để thanh tịnh Nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo rỗng không chẳng sân hận vậy.

Này Xá Lợi Phất! Có đại Bồ-tát lúc thực hành Bát nhã ba-la-mật an trụ trong Tinh tấn ba-la-mật để thanh tịnh Nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo rỗng không, thân tâm luôn tinh tấn chẳng trễ nãi thôi nghỉ vậy.

Này Xá Lợi Phất! Có đại Bồ-tát lúc thực hành Bát nhã ba-la-mật an trụ trong Thiền định ba-la-mật để thanh tịnh Nhất thiết chủng trí, vì rốt ráo rỗng không chẳng loạn động chẳng say mê thiền vị vậy”. (Kinh Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật, phẩm Vãng sanh).

Nhờ y cứ trên thực hành Bát-nhã, an trụ trong tánh Không mà năm ba-la-mật trở thành vô lượng vô biên:

“Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ-tát thực hành Bát nhã ba-la-mật này làm vô đẳng đẳng bố thí, đầy đủ vô đẳng đẳng bố thí ba-la-mật, được vô đẳng đẳng thân và vô đẳng đẳng pháp. Đây chính là Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Như Bố thí ba-la-mật, năm Ba-la-mật kia cũng như vậy.

Đức Thế Tôn cũng vốn đã thực hành Bát nhã ba-la-mật này mà đầy đủ sáu ba-la-mật, được vô đẳng đẳng pháp, được vô đẳng đẳng sắc thọ tưởng hành thức, thành Phật, chuyển vô đẳng đẳng pháp luân” (Phẩm Tán thán ba-la-mật).

Bát nhã ba-la-mật được ca ngợi vì Bát nhã ba-la-mật chính là tánh Không, tức là Nền tảng, Con đường và Quả. Ở đây chỉ xin trích ra một số câu trong phẩm Ca ngợi khắp trăm ba-la-mật:

“Ngài Tu-bồ-đề thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Vô biên ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì như hư không vô biên vậy.

Ngài Tu-bồ-đề thưa: Bình đẳng ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì các pháp bình đẳng vậy.

Ngài Tu-bồ-đề thưa: Ly ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì rốt ráo rỗng không vậy.

Ngài Tu-bồ-đề thưa: Bất hoại ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì tất cả pháp bất khả đắc vậy.

Ngài Tu-bồ-đề thưa: Bất khả thuyết ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì giác quán bất khả đắc vậy.

Ngài Tu-bồ-đề thưa: Bất diệt ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì tất cả pháp bất sanh vậy.

Ngài Tu-bồ-đề thưa: Bất động ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì pháp tánh thường trụ vậy.

Ngài Tu-bồ-đề thưa: Tịch diệt ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì tướng của tất cả pháp bất khả đắc vậy.

Ngài Tu-bồ-đề thưa: Vô phiền não ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì phân biệt nhớ tưởng là hư vọng vậy.

Ngài Tu-bồ-đề thưa: Vô chúng sanh ba-la-mật là Bát nhã ba-la-mật?

Đức Phật nói: Vì chúng sanh vô sở hữu vậy”.

Từ cội gốc hay nền tảng Bát-nhã này, người tu Bồ-tát hạnh hoàn thiện năm ba-la-mật kia:

“Này Tu-bồ-đề! Đại Bồ-tát từ lúc mới phát tâm hành Bố thí ba-la-mật, đúng với tâm Nhất thiết trí mà bố thí cho Phật hoặc Độc giác Phật hoặc Thanh văn, hoặc cho người hay loài chẳng phải người. Đại Bồ-tát này lúc ấy chẳng sanh tưởng niệm bố thí, chẳng sanh tưởng niệm lãnh thọ. Tại sao thế? Vì quán tất cả pháp tự tướng Không, không sanh, không có tướng cố định, không có chỗ chuyển động, mà nhập vào thật tướng của các pháp. Đó là tướng vô tác vô khởi của tất cả các pháp.

Đại Bồ-tát ấy dùng sức phương tiện này làm cho thiện căn thêm lớn. Vì thiện căn thêm lớn mà hành Bố thí ba-la-mật, tịnh Phật quốc độ thành tựu chúng sanh, bố thí mà chẳng hưởng thọ quả báo thế gian. Đại Bồ-tát chỉ vì muốn cứu độ tất cả chúng sanh mà hành Bố thí ba-la-mật” (Phẩm Trồng thiện căn).

Ba ba-la-mật đầu chủ về phước, ba ba-la-mật sau chủ về trí.

Nhờ sáu ba-la-mật nhiếp nhập lẫn nhau (phẩm Lục độ tương nhiếp) mà người ta đi trên con đường Bồ-tát đạo. Vì phước là cứu giúp chúng sanh nên Bồ-tát không trụ Niết-bàn; vì trí là soi thấy tánh Không của tất cả các pháp cho nên Bồ-tát không trụ trong sanh tử.

Con đường Bồ-tát không phải chỉ là sự giải thoát cho mình, mà còn lợi lạc cho người. Con đường Bồ-tát không phải là giải thoát khỏi tất cả pháp, mà là tự tại ở trong tất cả pháp:

“Đại Bồ-tát hành sáu ba-la-mật thì đầy đủ tất cả các thiện căn, sẽ được Vô thượng Bồ-đề. Đại Bồ-tát phải quán sắc chẳng hợp chẳng tan, thọ tưởng hành thức chẳng hợp chẳng tan, cho đến Nhất thiết chủng trí chẳng hợp chẳng tan. Đại Bồ-tát phải suy nghĩ như vầy: Tôi chẳng nên trụ trong sắc thọ tưởng hành thức cho đến trụ trong Nhất thiết chủng trí. Vì sao thế? Vì sắc không chỗ trụ, vì thọ tưởng hành thức không chỗ trụ, cho đến Nhất thiết chủng trí cũng không chỗ trụ.

Đại Bồ-tát dùng pháp vô trụ tập hành sáu ba-la-mật thì sẽ được Vô thượng Bồ-đề.

Đại Bồ-tát muốn tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh thì phải học Bát nhã ba-la-mật. Học Bát nhã ba-la-mật thì được tự tại ở trong tất cả các pháp” (Phẩm Đại phương tiện).

Kinh điển Phật giáo thường nói, đạo Phật là con đường tốt đẹp hoàn hảo ở chặng đầu, tốt đẹp hoàn hảo ở chặng giữa, và tốt đẹp hoàn hảo ở chặng cuối cùng. Tốt đẹp hoàn hảo ở chặng cuối cùng cũng như tốt đẹp hoàn hảo ở chặng đầu nghĩa là cái gì có ở chặng cuối cùng cũng phải có ở chặng đầu. Cái tốt đẹp hoàn hảo ở chặng cuối cùng cũng phải có ở chặng đầu, cái ấy là tánh Không. Tánh Không và sự quán chiếu tánh Không, tức là Bát nhã ba-la-mật, đã có ngay từ bước đầu tiên cho đến bước cuối cùng. Thế nên, con đường Bát nhã ba-la-mật là sự khai triển cho đến viên mãn cái đã có ngay từ bước đầu tiên vậy.

Văn hóa Phật giáo số 165
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/02/2012(Xem: 3605)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
26/02/2012(Xem: 4355)
Thể tánh của đức Phật A Di Đà là vô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
17/02/2012(Xem: 8381)
Cuộc đời con người sống chỉ khoảng 80 năm, nhưng loanh quanh, lẩn quẩn trong sự vui buồn, thương ghét, phải quấy, tốt xấu, hơn thua, thành bại và được mất. Hôm nay, chúng ta cùng nhau tham khảo về "Thông điệp cuộc đời". Mỗi người chúng ta có mặt trong cuộc đời này đều sống và gắn bó với nó giống như gắn bó với đau khổ và hạnh phúc vậy. Nhưng bất hạnh thay, hạnh phúc thì ít mà khổ đau lại quá nhiều. Bởi vì sao? Vì chúng ta không biết yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau bằng tình người trong cuộc sống với trái tim thương yêu và hiểu biết.
31/01/2012(Xem: 3266)
Nếu chỉ vì ngũ quan không thể cảm nhận được mà ta quả quyết rằng Niết Bàn là hư vô, là không không, không có gì hết, thì cũng phi lý như người mù kết luận rằng trong đời không có ánh sáng, chỉ vì không bao giờ anh ta thấy ánh sáng. Trong ngụ ngôn "Rùa và Cá" được nhiều người biết, cá chỉ biết có nước nên khi nói với rùa, cá dõng dạc kết luận rằng không có đất, bởi vì có những câu hỏi của cá đều được rùa trả lời là "không". Thuở xưa có một con cá. Cá chỉ biết trong nước và không biết gì ngoại trừ nước. Một hôm, cá mải mê bơi lội trong ao đầm quen thuộc như mọi hôm thì gặp lại chị Rùa. Hỏi ra thì hèn lâu rùa đi dạo trên đất liền. Cá hỏi: "Chào chị rùa, chị đi đâu mà hèn lâu tôi không gặp?" - Này chị cá, chào chị. Hôm rày tôi đi một vòng lên trên đất khô. Rùa trả lời. - Đất khô à! Cá lấy làm ngạc nhiên. Chị nói đất khô, vậy đất khô là gì? Đất làm sao khô được? Tôi chưa bao giờ thấy cái gì mà khô. Đất khô chắc là không có gì hết.
17/01/2012(Xem: 3952)
Hôm nay thể theo lời yêu cầu của chư Tăng Ni tại đây, chúng tôi sẽ thuyết một thời pháp cho tất cả Tăng Ni Phật tử nghe, với đề tài Cội gốc sanh tử và cội gốc Niết-bàn.
27/12/2011(Xem: 3980)
Dựa theo tinh thần Phật giáo, do nhân duyên hòa hợp tất cảnhững nghiệp duyên từ trong những đời quá khứ mà kiến tạo ra con người trong kiếpnầy.
15/12/2011(Xem: 4828)
Nam-Mô A-Di-Đà Phật. Vâng lệnh thầy Trụ trì và thầy Giáo thọ, Minh Tuệ tôi ra thất chia sẻ kinh nghiệm niệm Phật cho Phật tử chùa Tịnh Luật từ năm 2009. Sau hai năm làm Phật sự, tôi nhận thấy Phật tử nắm vững phương pháp hành trì, riêng bản thân tôi bị khựng lại. Do đó tôi ngỏ ý với Phật tử, sẽ vô thất trở lại. Phật tử nói: “Thầy vô thất, chúng con có khó khăn trở ngại đường tu, chúng con biết hỏi ai?”. Tôi trả lời không được. Dù rằng chùa Tịnh Luật còn lắm thầy giỏi hơn tôi nhiều, nhưng mỗi thầy có pháp tu riêng, không ai giống ai, nên có thể giải đáp không thỏa đáng chăng? Phật tử nói tiếp: “Vậy thầy giải đáp sẵn những khó khăn trở ngại, chướng nạn mà chúng con có thể gặp, để chúng con nương theo đó mà hành trì”. Đề nghị này rất có lý, mặc dù đối với khả năng hạn hẹp của tôi, thì đây không phải việc dễ làm. Trước tình thế không thể từ chối, tôi nói: “Vậy thì quý vị đặt những câu hỏi, tập trung lại đưa tôi trả lời”. Đây là lý do quyển “Tịnh Độ Thực Hành Vấn Đáp” ra đời.
23/11/2011(Xem: 5530)
Có một lần khi Đấng Thế Tôn ngụ tại thành Xá-vệ (Sâvatthi) thì vào một buổi chiều, đức vua Pasenadi của xứ Kiêu-tát-la (Kosala) thân hành đến viếng thăm Ngài. Vua Pasedani tiến đến gần Đấng Thế Tôn, đảnh lễ và ngồi sang một bên. Đấng Thế Tôn cất lời hỏi vua Pasedani như sau: - Này đại vương, ngài mới đến đấy à. Thế lúc trưa này ngài ở đâu?
16/11/2011(Xem: 4795)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người,mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
13/10/2011(Xem: 6258)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không nhầm lẫn với những lời dạy bởi các giáo chủ của các ngoại đạo khác qua: “Các hành là vô thường, các pháp vô ngã và, Niết-bàn tịch tĩnh” cho nên được gọi là ba pháp ấn. Ba phạm trù nội dung nghĩa lý này chúng luôn luôn phù hợp với chân lý cuộc sống qua mọi hiện tượng nhân sinh cùng vũ trụ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]