Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Câu hỏi về sự chứng ngộ Niết Bàn

27/03/201101:54(Xem: 5453)
Câu hỏi về sự chứng ngộ Niết Bàn

Lời Dẫn Nhập:

Đây là câu hỏi liên quan đến sự chứng ngộ Niết Bàn củađức vua Milinda (Mi Lan Đà) và phần trả lời của Trưởng Lão Nāgasena (Na Tiên).Phần này được trích dịch từ tác phẩm Milindapañhā -Milinda Vấn Đạo. Hy vọng rằng văn bản này có thể giúp ích được ít nhiềucho các hành giả đang tinh cần tu tập giải thoát. - TỳKhưu Indacanda.

*****

CÂU HỎI VỀ SỰ CHỨNG NGỘ NIẾT BÀN:

1. “Thưa ngài Nāgasena, ngàinói rằng: ‘Niết Bàn không là quá khứ, không là hiện tại, không là vị lai, khôngphải là được sanh lên, không phải là không được sanh lên, không phải là sẽ đượclàm cho sanh lên.’ Thưa ngài Nāgasena, ở đây người nào đó thực hành đúng đắn vàchứng ngộ Niết Bàn, thì người ấy chứng ngộ cái (Niết Bàn) đã được sanh lên, haylà làm cho (Niết Bàn) sanh lên rồi chứng ngộ?”

“Tâu đại vương, người nào đó thực hành đúng đắn thìchứng ngộ Niết Bàn, người ấy chứng ngộ không phải cái (Niết Bàn) đã được sanhlên, không phải là làm cho (Niết Bàn) sanh lên rồi chứng ngộ. Tâu đại vương, tuynhiên có cảnh giới Niết Bàn ấy, người ấy thực hành đúng đắn và chứng ngộ cáiấy.”

“Thưa ngài Nāgasena, xin ngài chớ làm cho câuhỏi này bị che đậy lại rồi mới giải thích. Xin ngài hãy làm cho nó được mở ra,được rõ ràng, rồi giải thích. Với ước muốn đã được sanh khởi, với sự nỗ lực đãđược sanh khởi, điều nào ngài đã học, xin ngài hãy tuôn ra tất cả các điều ấycho chính trường hợp này. Ở đây, đám người này là mê muội, bị sanh khởi nỗiphân vân, bị khởi lên sự nghi ngờ. Xin ngài hãy phá vỡ mũi tên có sự độc hại ởbên trong ấy.”

2. “Tâu đại vương, có cảnh giới Niết Bàn ấy,tịch tịnh, an lạc, hảo hạng. Người thực hành đúng đắn, trong khi tiếp xúc cáchành theo lời dạy của đấng Chiến Thắng, nhờ vào tuệ mà chứng ngộ Niết Bàn. Tâuđại vương, giống như người đệ tử, theo lời dạy của vị thầy, nhờ vào tuệ mà chứngngộ được kiến thức. Tâu đại vương, tương tợ y như thế người thực hành đúng đắntheo lời dạy của đấng Chiến Thắng, nhờ vào tuệ mà chứng ngộ Niết Bàn.”

“Vậy thì Niết Bàn sẽ được nhìnthấy như thế nào?”

“Sẽ được nhìn thấy là không có rủi ro, không cóbất hạnh, không có sợ hãi, là an toàn, tịch tịnh, an lạc, thoải mái, hảo hạng,trong sạch, mát lạnh. Tâu đại vương, giống như người đàn ông, trong khi bị đốtnóng bởi ngọn lửa với nhiều đống củi đã được phát cháy sôi sục, sau khi thoátkhỏi nơi ấy nhờ vào sự nỗ lực, và đi vào nơi không có ngọn lửa, rồi đạt đượchạnh phúc tột độ ở nơi ấy. Tâu đại vương, tương tợ y như thế người nào thựchành đúng đắn, người ấy nhờ vào sự tác ý đúng đường lối chứng ngộ Niết Bàn anlạc tối thượng, nơi xa lìa sức nóng của ngọn lửa gồm ba loại. Tâu đại vương, ngọnlửa là như thế nào thì ngọn lửa gồm ba loại nên được xem xét như vậy. Người đànông ở trong ngọn lửa là như thế nào thì người thực hành đúng đắn nên được xemxét như vậy. Nơi không có ngọn lửa là như thế nào thì Niết Bàn nên được xem xétnhư vậy.

3. Tâu đại vương, hoặc là giống như người đànông đi đến nơi chất đống các xác chết của rắn, chó, người và các phần thải bỏcủa cơ thể, bị kẹt vào ở giữa các búi tóc bị rối lại của các xác chết, sau khi thoátkhỏi nơi ấy nhờ vào sự nỗ lực, và đi vào nơi không có xác chết, rồi đạt đượchạnh phúc tột độ ở nơi ấy. Tâu đại vương, tương tợ y như thế người nào thựchành đúng đắn, người ấy nhờ vào sự tác ý đúng đường lối chứng ngộ Niết Bàn anlạc tối thượng, nơi xa lìa xác chết phiền não. Tâu đại vương, xác chết là nhưthế nào thì năm loại dục nên được xem xét như vậy. Người đàn ông đi đến nơi cácxác chết là như thế nào thì người thực hành đúng đắn nên được xem xét như vậy.Nơi không có xác chết là như thế nào thì Niết Bàn nên được xem xét như vậy.

Tâu đại vương, hoặc là giống như người đàn ông bịkhiếp sợ, bị run sợ, bị rúng động, có tâm bị xáo trộn và bị tán loạn, sau khi thoátkhỏi nơi ấy nhờ vào sự nỗ lực, và đi vào nơi chắc chắn, vững chải, không layđộng, không có sự sợ hãi, rồi đạt được hạnh phúc tột độ ở nơi ấy. Tâu đạivương, tương tợ y như thế người nào thực hành đúng đắn, người ấy nhờ vào sự tácý đúng đường lối chứng ngộ Niết Bàn an lạc tối thượng, nơi xa lìa sự sợ hãi vàsự run sợ. Tâu đại vương, sự sợ hãi là như thế nào thì sự sợ hãi được vận hànhmột cách liên tục tùy thuận theo sanh-già-bệnh-chết nên được xem xét như vậy.Người đàn ông bị khiếp sợ là như thế nào thì người thực hành đúng đắn nên đượcxem xét như vậy. Nơi không có sự sợ hãi là như thế nào thì Niết Bàn nên đượcxem xét như vậy.

Tâu đại vương, hoặc là giống như người đàn ôngbị té ngã vào khu vực là vũng bùn, đầm lầy, bị ô nhiễm, dơ bẩn, sau khi ra khỏivũng bùn, đầm lầy ấy nhờ vào sự nỗ lực, và đi đến khu vực hoàn toàn trong sạch,không nhơ bẩn, rồi đạt được hạnh phúc tột độ ở nơi ấy. Tâu đại vương, tương tợy như thế người nào thực hành đúng đắn, người ấy nhờ vào sự tác ý đúng đườnglối chứng ngộ Niết Bàn an lạc tối thượng, nơi xa lìa vũng lầy phiền não ô nhiễm.Tâu đại vương, vũng bùn là như thế nào thì lợi lộc, tôn vinh, danh tiếng nênđược xem xét như vậy. Người đàn ông ở trong vũng bùn là như thế nào thì ngườithực hành đúng đắn nên được xem xét như vậy. Khu vực hoàn toàn trong sạch,không nhơ bẩn là như thế nào thì Niết Bàn nên được xem xét như vậy.”

4. “Thưa ngài, vậy thì người thực hành đúng đắnlàm cách nào chứng ngộ Niết Bàn ấy?”

“Tâu đại vương, người nào thực hành đúng đắn, ngườiấy tiếp xúc với sự vận hành của các hành; trong khi tiếp xúc với sự vận hành,nhìn thấy sự sanh, nhìn thấy sự già, nhìn thấy sự bệnh, nhìn thấy sự chết ở nơiấy, không nhìn thấy bất cứ điều gì an lạc, thoải mái ở nơi ấy, từ phần đầu, từ phầngiữa, từ phần cuối. Người ấy không nhìn thấy bất cứ điều gì đáng được nắm bắt.

Tâu đại vương, giống như người đàn ông khôngnhìn thấy bất cứ chỗ nào đáng được nắm bắt ở cục sắt được đốt nóng trọn ngày, bịbốc cháy, sôi sục, nóng bỏng, từ phần đầu, từ phần giữa, từ phần cuối. Tâu đạivương, tương tợ y như thế người nào tiếp xúc với sự vận hành của các hành,người ấy trong khi tiếp xúc với sự vận hành, nhìn thấy sự sanh, nhìn thấy sựgià, nhìn thấy sự bệnh, nhìn thấy sự chết ở nơi ấy, không nhìn thấy bất cứ điềugì an lạc, thoải mái ở nơi ấy, từ phần đầu, từ phần giữa, từ phần cuối. Ngườiấy không nhìn thấy bất cứ điều gì đáng được nắm bắt. Đối với người ấy, trongkhi không nhìn thấy điều gì đáng được nắm bắt, sự không thích thú được thànhlập ở tâm của người ấy, sự nóng bức xuất hiện ở thân của người ấy. Người ấy,không có sự bảo vệ, không có sự nương nhờ, có trạng thái không có chỗ nươngnhờ, nên nhàm chán ở các hữu.

Tâu đại vương, giống như người đi vào đống lửalớn, có ngọn lửa cháy rực. Ở đó, người ấy không có sự bảo vệ, không có sự nươngnhờ, có trạng thái không có chỗ nương nhờ, nên nhàm chán ở ngọn lửa. Tâu đạivương, tương tợ y như thế, đối với người ấy, trong khi không nhìn thấy điều gìđáng được nắm bắt, sự không thích thú được thành lập ở tâm của người ấy, sựnóng bức xuất hiện ở thân của người ấy. Người ấy, không có sự bảo vệ, không cósự nương nhờ, có trạng thái không có chỗ nương nhờ, nên nhàm chán ở các hữu.Đối với người ấy, đã nhìn thấy nỗi sợ hãi ở sự vận hành, có tâm như vầy sanhkhởi: ‘Sự vận hành này quả đã được đốt nóng, được cháy đỏ, được cháy rực, cónhiều khổ đau, có nhiều ưu phiền. Nếu ai đó có thể đạt được sự không vận hành,điều ấy là tịch tịnh, điều ấy là hảo hạng, tức là sự yên lặng của tất cả cáchành, sự từ bỏ tất cả các mầm tái sanh, sự diệt tận ái dục, sự lìa khỏi luyến ái,sự tịnh diệt, Niết Bàn.’ Nhờ vậy, tâm của người ấy lao vào ở sự không vận hành,được tin tưởng, được hài lòng, được vui mừng: ‘Sự thoát ra đã đạt được bởi ta.’

Tâu đại vương, giống như người đàn ông bị lạclối, bị rơi vào nơi lạ, sau khi nhìn thấy lối ra, thì lao vào nơi ấy, được tintưởng, được hài lòng, được vui mừng: ‘Lối ra đã đạt được bởi ta.’ Tâu đạivương, tương tợ y như thế đối với người đã nhìn thấy nỗi sợ hãi ở sự vận hành, thìtâm của người ấy lao vào ở sự không vận hành, được tin tưởng, được hài lòng,được vui mừng: ‘Sự thoát ra đã đạt được bởi ta.’ Người ấy tích lũy, theo đuổi,tu tập, thực hành thường xuyên đạo lộ đưa đến sự không vận hành. Đối với người ấy,niệm được thành lập ở mục đích ấy, tinh tấn được thành lập ở mục đích ấy, hỷđược thành lập ở mục đích ấy. Trong khi người ấy chú tâm liên tục ở tâm ấy, thìvượt qua sự vận hành, đi đến sự không vận hành. Tâu đại vương, người đã đạt đếnsự không vận hành, đã thực hành đúng đắn, được gọi là ‘chứng ngộ Niết Bàn.’”

“Thưa ngài Nāgasena, tốt lắm! Trẫm chấp nhậnđiều này đúng theo như vậy.”

Dứt câu hỏi về sự chứng ngộ NiếtBàn.

*****

KINH MI TIÊN VẤN ĐÁP (MILINDA PANHA), Giới Nghiêm



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/11/2014(Xem: 5683)
Vô minh có nghĩa là không sáng, không sáng không có nghĩa là không có ánh sáng mà vì ta không nhận ra ánh sáng đó. Cũng vậy hằng ngày chúng ta sống trong ánh sáng mặt trời mà ta không nhận ra gì hết, còn các nhà khoa học thì nhận ra được. Chẳng những nhận ra mà còn đo được tốc độ di chuyển của nó và phân biệt được nó chuyển động bằng sóng hay bằng hạt.
16/11/2014(Xem: 15480)
Lý thuyết nòng cốt của Phật giáo về sự cấu tạo con người và vũ trụ là năm uẩn. Uẩn có nghĩa là sự chứa nhóm, tích tụ: 5 uẩn là 5 nhóm tạo thành con người. Sở dĩ gọi “nhóm” là vì: 1) Tâm vật không rời nhau, tạo thành một nhóm gọi là uẩn. 2) Gồm nhiều thứ khác nhau họp lại, như sắc uẩn là nhóm vật chất gồm 4 đại địa thủy hỏa phong (chất cứng, chất lỏng, hơi nóng, chuyển động) và những vật do 4 đại tạo thành. 3) Mỗi một nhóm trong 5 uẩn có đặc tính lôi kéo nhóm khác, như sắc uẩn kéo theo thọ, thọ kéo theo tưởng, tưởng kéo theo hành... 4) và cuối cùng ý nghĩa thâm thúy nhất của uẩn như kinh Bát nhã nói, là: “kết tụ sự đau khổ”.
04/11/2014(Xem: 4948)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God. Các tôn giáo độc thần tin rằng vũ trụ và nhân loại sinh ra từ một Đấng Sáng Tạo, một thời xưa cổ được hình dung như là một ông già tóc bạc râu dài đã sanh ra con người theo mô hình Thượng Đế. Khi khoa học cho biết không thể có một vị như thế, các lý thuyết gia độc thần mới xóa hình ảnh râu dài tóc bạc và diễn giải Thượng Đế Sáng Tạo như một định luật đã sanh ra loài người và quan phòng cho khắp thế giới. Một số tôn giáo Tây phương còn đồng nhất khái niệm Phật Tánh (Buddha-nature) với Đấng Sáng Tạo trong khi chiêu dụ Phật tử cải đạo. Thực ra, Phật Tánh không hề sanh ra gì hết, vì không hề có một nguyên lý duy nhất bao giờ, và tất cả những gì chúng ta nhìn thấy chỉ là các pháp sanh khởi theo luật Duyên Khởi; hễ đủ duyên thì sanh, hết duyên thì biến mất. Bởi vậy, mới nói Phật Tánh vốn thực là Vô Tự Tánh.
15/10/2014(Xem: 5472)
Có lắm người xuất gia cũng như tại gia cho rằng, chúng ta tu không thể nào giác ngộ thành Phật. Vì đức Phật ra đời có những nhân duyên kỳ đặc, bản chất Ngài đã thánh sẵn rồi; còn chúng ta nào là ham mê dục lạc, nào là tội lỗi đầy đầu, nào là sanh nhằm thời mạt pháp căn cơ yếu kém ngu độn v.v... làm sao tu thành Phật được? Ở đây chúng ta hãy nhìn Thái tử là một con người, thật là người để lấy làm mẫu mực hướng theo tu hành.
08/10/2014(Xem: 5538)
Một số cư sĩ Phật giáo Nam tông thường hỏi tôi về tư tưởng Tánh Không trong kinh điển Theravāda. Có khi tôi trả lời: “Các pháp do duyên khởi nên vô ngã tính, vì vô ngã tính nên không. Không này chính là Không Tánh chứ có gì lạ đâu!” Một lần khác nữa, tôi lại nói: “Cứ đọc cho thật kỹ kinh Tiểu Không, kinh Đại Không, kinh Đại Duyên là sẽ hiểu rõ toàn bộ về tư tưởng Tánh Không thời Phật”. Tuy nhiên, trả lời gì cũng không giải toả được sự tồn nghi, thắc mắc của chư cư sĩ ấy.
06/10/2014(Xem: 5411)
Các kinh nghiệm, quan điểm, phương pháp, hệ thống, lý thuyết, chủ thuyết… là các công cụ để định hướng cho đời sống cá nhân và xã hội. Nó giống như những cái thuyền, bè giúp chúng ta đi qua dòng sông thực tiễn.
06/10/2014(Xem: 6127)
Ngạn ngữ Tây phương nói: “ Cái Tôi là cái đáng ghét” ( Le moi est haissable). Mặc dù là một câu nói được nhiều người biết, nhưng đó mới chỉ là nhận xét hời hợt về cái gọi là Cái Tôi. Đối với ngươi Đông phương, từ mấy ngàn năm nay, Cái Tôi được các nhà hiền triết Ấn Độ, Trung Hoa khám phá và theo dõi rất kỹ lưỡng và sâu sắc; đến nỗi họ mới lập nên một nền triết học về Bản Ngã, về Cái Tôi của con người; với chủ trương: muốn hạnh phúc thì phải giải thoát bản thân khỏi những ràng buộc của Cái Tôi, hoặc chuyển hóa “Cái Tôi Rác Rưỡi” trở thành Cái Tôi thanh khiết, chân thiện. Đặc biệt, đạo Phật dạy phải nỗ lực diệt trừ “lòng chấp ngã” và luôn luôn đề cao tinh thần Vô Ngã như là một trong Tam Pháp Ấn.
02/10/2014(Xem: 4982)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền. Vacchagotta tới thăm Bụt. Ông hỏi: - Này sa môn Gautama, có một linh hồn hay không? Bụt im lặng không trả lời. Lát sau Vacchagotta hỏi: - Như vậy là không có linh hồn phải không? Bụt cũng ngồi im lặng. Sau đó Vacchagotta đứng dậy chào và đi ra. Sau khi Vacchagotta đi rồi, Thầy A Nan hỏi Bụt: - Tại sao Thầy không trả lời cho Vacchagotta? Và Bụt bắt đầu cắt nghĩa…
30/09/2014(Xem: 4821)
Ánh hào quang Phật giáo Việt-nam ở cuối triều đại nhà Nguyễn (Khải Định, Bảo Đại) dần dần ẩn mình trong ốc đảo Tịnh Độ, chùa chiền và cá nhân phật tử không còn được sinh hoạt rộng rãi ra xã hội như trước, do bởi tấm chắn của hai bạo lực thực dân Pháp và Thiên-chúa giáo, ngăn chặn và đàn áp bằng Đạo Dụ số 10, không cho thành lập giáo hội, chỉ được lập hội như các hội thể thao, từ thiện… Do đó mà mọi sinh hoạt phật sự đều bị thu gọn trong chùa từ 1932.
23/09/2014(Xem: 16002)
“Đường về” là một tuyển tập gồm một số bài tiểu luận về Phật pháp do cố Ni trưởng Thích Nữ Trí Hải thực hiện. Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lý và pháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa mà tác giả đã có nhân duyên được học tập, thực hành và mong muốn chia sẻ với người khác. Được học tập và thực hành lời Phật dạy là một may mắn lớn của đời người. Người con Phật nhận chân được điều này và do đó luôn luôn mang tâm nguyện chia sẻ với người khác những gì mình đã được học tập và cảm nghiệm ở trong Phật pháp. Chính nhờ tinh thần cao quý này mà đạo Phật không ngừng được phổ biến rộng rãi, và nay những ai yêu quý Ni trưởng Trí Hải vẫn cảm thấy như được chia sẻ lớn từ một người có tâm nguyện mong được chia sẻ nhiều hơn cho cuộc đời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]