Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Câu hỏi về sự chứng ngộ Niết Bàn

27/03/201101:54(Xem: 5428)
Câu hỏi về sự chứng ngộ Niết Bàn

Lời Dẫn Nhập:

Đây là câu hỏi liên quan đến sự chứng ngộ Niết Bàn củađức vua Milinda (Mi Lan Đà) và phần trả lời của Trưởng Lão Nāgasena (Na Tiên).Phần này được trích dịch từ tác phẩm Milindapañhā -Milinda Vấn Đạo. Hy vọng rằng văn bản này có thể giúp ích được ít nhiềucho các hành giả đang tinh cần tu tập giải thoát. - TỳKhưu Indacanda.

*****

CÂU HỎI VỀ SỰ CHỨNG NGỘ NIẾT BÀN:

1. “Thưa ngài Nāgasena, ngàinói rằng: ‘Niết Bàn không là quá khứ, không là hiện tại, không là vị lai, khôngphải là được sanh lên, không phải là không được sanh lên, không phải là sẽ đượclàm cho sanh lên.’ Thưa ngài Nāgasena, ở đây người nào đó thực hành đúng đắn vàchứng ngộ Niết Bàn, thì người ấy chứng ngộ cái (Niết Bàn) đã được sanh lên, haylà làm cho (Niết Bàn) sanh lên rồi chứng ngộ?”

“Tâu đại vương, người nào đó thực hành đúng đắn thìchứng ngộ Niết Bàn, người ấy chứng ngộ không phải cái (Niết Bàn) đã được sanhlên, không phải là làm cho (Niết Bàn) sanh lên rồi chứng ngộ. Tâu đại vương, tuynhiên có cảnh giới Niết Bàn ấy, người ấy thực hành đúng đắn và chứng ngộ cáiấy.”

“Thưa ngài Nāgasena, xin ngài chớ làm cho câuhỏi này bị che đậy lại rồi mới giải thích. Xin ngài hãy làm cho nó được mở ra,được rõ ràng, rồi giải thích. Với ước muốn đã được sanh khởi, với sự nỗ lực đãđược sanh khởi, điều nào ngài đã học, xin ngài hãy tuôn ra tất cả các điều ấycho chính trường hợp này. Ở đây, đám người này là mê muội, bị sanh khởi nỗiphân vân, bị khởi lên sự nghi ngờ. Xin ngài hãy phá vỡ mũi tên có sự độc hại ởbên trong ấy.”

2. “Tâu đại vương, có cảnh giới Niết Bàn ấy,tịch tịnh, an lạc, hảo hạng. Người thực hành đúng đắn, trong khi tiếp xúc cáchành theo lời dạy của đấng Chiến Thắng, nhờ vào tuệ mà chứng ngộ Niết Bàn. Tâuđại vương, giống như người đệ tử, theo lời dạy của vị thầy, nhờ vào tuệ mà chứngngộ được kiến thức. Tâu đại vương, tương tợ y như thế người thực hành đúng đắntheo lời dạy của đấng Chiến Thắng, nhờ vào tuệ mà chứng ngộ Niết Bàn.”

“Vậy thì Niết Bàn sẽ được nhìnthấy như thế nào?”

“Sẽ được nhìn thấy là không có rủi ro, không cóbất hạnh, không có sợ hãi, là an toàn, tịch tịnh, an lạc, thoải mái, hảo hạng,trong sạch, mát lạnh. Tâu đại vương, giống như người đàn ông, trong khi bị đốtnóng bởi ngọn lửa với nhiều đống củi đã được phát cháy sôi sục, sau khi thoátkhỏi nơi ấy nhờ vào sự nỗ lực, và đi vào nơi không có ngọn lửa, rồi đạt đượchạnh phúc tột độ ở nơi ấy. Tâu đại vương, tương tợ y như thế người nào thựchành đúng đắn, người ấy nhờ vào sự tác ý đúng đường lối chứng ngộ Niết Bàn anlạc tối thượng, nơi xa lìa sức nóng của ngọn lửa gồm ba loại. Tâu đại vương, ngọnlửa là như thế nào thì ngọn lửa gồm ba loại nên được xem xét như vậy. Người đànông ở trong ngọn lửa là như thế nào thì người thực hành đúng đắn nên được xemxét như vậy. Nơi không có ngọn lửa là như thế nào thì Niết Bàn nên được xem xétnhư vậy.

3. Tâu đại vương, hoặc là giống như người đànông đi đến nơi chất đống các xác chết của rắn, chó, người và các phần thải bỏcủa cơ thể, bị kẹt vào ở giữa các búi tóc bị rối lại của các xác chết, sau khi thoátkhỏi nơi ấy nhờ vào sự nỗ lực, và đi vào nơi không có xác chết, rồi đạt đượchạnh phúc tột độ ở nơi ấy. Tâu đại vương, tương tợ y như thế người nào thựchành đúng đắn, người ấy nhờ vào sự tác ý đúng đường lối chứng ngộ Niết Bàn anlạc tối thượng, nơi xa lìa xác chết phiền não. Tâu đại vương, xác chết là nhưthế nào thì năm loại dục nên được xem xét như vậy. Người đàn ông đi đến nơi cácxác chết là như thế nào thì người thực hành đúng đắn nên được xem xét như vậy.Nơi không có xác chết là như thế nào thì Niết Bàn nên được xem xét như vậy.

Tâu đại vương, hoặc là giống như người đàn ông bịkhiếp sợ, bị run sợ, bị rúng động, có tâm bị xáo trộn và bị tán loạn, sau khi thoátkhỏi nơi ấy nhờ vào sự nỗ lực, và đi vào nơi chắc chắn, vững chải, không layđộng, không có sự sợ hãi, rồi đạt được hạnh phúc tột độ ở nơi ấy. Tâu đạivương, tương tợ y như thế người nào thực hành đúng đắn, người ấy nhờ vào sự tácý đúng đường lối chứng ngộ Niết Bàn an lạc tối thượng, nơi xa lìa sự sợ hãi vàsự run sợ. Tâu đại vương, sự sợ hãi là như thế nào thì sự sợ hãi được vận hànhmột cách liên tục tùy thuận theo sanh-già-bệnh-chết nên được xem xét như vậy.Người đàn ông bị khiếp sợ là như thế nào thì người thực hành đúng đắn nên đượcxem xét như vậy. Nơi không có sự sợ hãi là như thế nào thì Niết Bàn nên đượcxem xét như vậy.

Tâu đại vương, hoặc là giống như người đàn ôngbị té ngã vào khu vực là vũng bùn, đầm lầy, bị ô nhiễm, dơ bẩn, sau khi ra khỏivũng bùn, đầm lầy ấy nhờ vào sự nỗ lực, và đi đến khu vực hoàn toàn trong sạch,không nhơ bẩn, rồi đạt được hạnh phúc tột độ ở nơi ấy. Tâu đại vương, tương tợy như thế người nào thực hành đúng đắn, người ấy nhờ vào sự tác ý đúng đườnglối chứng ngộ Niết Bàn an lạc tối thượng, nơi xa lìa vũng lầy phiền não ô nhiễm.Tâu đại vương, vũng bùn là như thế nào thì lợi lộc, tôn vinh, danh tiếng nênđược xem xét như vậy. Người đàn ông ở trong vũng bùn là như thế nào thì ngườithực hành đúng đắn nên được xem xét như vậy. Khu vực hoàn toàn trong sạch,không nhơ bẩn là như thế nào thì Niết Bàn nên được xem xét như vậy.”

4. “Thưa ngài, vậy thì người thực hành đúng đắnlàm cách nào chứng ngộ Niết Bàn ấy?”

“Tâu đại vương, người nào thực hành đúng đắn, ngườiấy tiếp xúc với sự vận hành của các hành; trong khi tiếp xúc với sự vận hành,nhìn thấy sự sanh, nhìn thấy sự già, nhìn thấy sự bệnh, nhìn thấy sự chết ở nơiấy, không nhìn thấy bất cứ điều gì an lạc, thoải mái ở nơi ấy, từ phần đầu, từ phầngiữa, từ phần cuối. Người ấy không nhìn thấy bất cứ điều gì đáng được nắm bắt.

Tâu đại vương, giống như người đàn ông khôngnhìn thấy bất cứ chỗ nào đáng được nắm bắt ở cục sắt được đốt nóng trọn ngày, bịbốc cháy, sôi sục, nóng bỏng, từ phần đầu, từ phần giữa, từ phần cuối. Tâu đạivương, tương tợ y như thế người nào tiếp xúc với sự vận hành của các hành,người ấy trong khi tiếp xúc với sự vận hành, nhìn thấy sự sanh, nhìn thấy sựgià, nhìn thấy sự bệnh, nhìn thấy sự chết ở nơi ấy, không nhìn thấy bất cứ điềugì an lạc, thoải mái ở nơi ấy, từ phần đầu, từ phần giữa, từ phần cuối. Ngườiấy không nhìn thấy bất cứ điều gì đáng được nắm bắt. Đối với người ấy, trongkhi không nhìn thấy điều gì đáng được nắm bắt, sự không thích thú được thànhlập ở tâm của người ấy, sự nóng bức xuất hiện ở thân của người ấy. Người ấy,không có sự bảo vệ, không có sự nương nhờ, có trạng thái không có chỗ nươngnhờ, nên nhàm chán ở các hữu.

Tâu đại vương, giống như người đi vào đống lửalớn, có ngọn lửa cháy rực. Ở đó, người ấy không có sự bảo vệ, không có sự nươngnhờ, có trạng thái không có chỗ nương nhờ, nên nhàm chán ở ngọn lửa. Tâu đạivương, tương tợ y như thế, đối với người ấy, trong khi không nhìn thấy điều gìđáng được nắm bắt, sự không thích thú được thành lập ở tâm của người ấy, sựnóng bức xuất hiện ở thân của người ấy. Người ấy, không có sự bảo vệ, không cósự nương nhờ, có trạng thái không có chỗ nương nhờ, nên nhàm chán ở các hữu.Đối với người ấy, đã nhìn thấy nỗi sợ hãi ở sự vận hành, có tâm như vầy sanhkhởi: ‘Sự vận hành này quả đã được đốt nóng, được cháy đỏ, được cháy rực, cónhiều khổ đau, có nhiều ưu phiền. Nếu ai đó có thể đạt được sự không vận hành,điều ấy là tịch tịnh, điều ấy là hảo hạng, tức là sự yên lặng của tất cả cáchành, sự từ bỏ tất cả các mầm tái sanh, sự diệt tận ái dục, sự lìa khỏi luyến ái,sự tịnh diệt, Niết Bàn.’ Nhờ vậy, tâm của người ấy lao vào ở sự không vận hành,được tin tưởng, được hài lòng, được vui mừng: ‘Sự thoát ra đã đạt được bởi ta.’

Tâu đại vương, giống như người đàn ông bị lạclối, bị rơi vào nơi lạ, sau khi nhìn thấy lối ra, thì lao vào nơi ấy, được tintưởng, được hài lòng, được vui mừng: ‘Lối ra đã đạt được bởi ta.’ Tâu đạivương, tương tợ y như thế đối với người đã nhìn thấy nỗi sợ hãi ở sự vận hành, thìtâm của người ấy lao vào ở sự không vận hành, được tin tưởng, được hài lòng,được vui mừng: ‘Sự thoát ra đã đạt được bởi ta.’ Người ấy tích lũy, theo đuổi,tu tập, thực hành thường xuyên đạo lộ đưa đến sự không vận hành. Đối với người ấy,niệm được thành lập ở mục đích ấy, tinh tấn được thành lập ở mục đích ấy, hỷđược thành lập ở mục đích ấy. Trong khi người ấy chú tâm liên tục ở tâm ấy, thìvượt qua sự vận hành, đi đến sự không vận hành. Tâu đại vương, người đã đạt đếnsự không vận hành, đã thực hành đúng đắn, được gọi là ‘chứng ngộ Niết Bàn.’”

“Thưa ngài Nāgasena, tốt lắm! Trẫm chấp nhậnđiều này đúng theo như vậy.”

Dứt câu hỏi về sự chứng ngộ NiếtBàn.

*****

KINH MI TIÊN VẤN ĐÁP (MILINDA PANHA), Giới Nghiêm



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/07/2010(Xem: 10785)
Có nhiều bài báo, nhiều công trình khảo cứu công phu viết về con số 0 cả từ thế kỷ trước sang đến thế kỷ này. Quả tình, đó là con số kì diệu. Có những câu hỏi tưởng chừng ngớ ngẩn, chẳng hạn, “số không có phải là con số?”, nhưng đó lại là câu hỏi gây nên những trả lời dị biệt, và ở mỗi khuynh hướng tiếp cận khác nhau, những câu trả lời khẳng hoặc phủ định đều có những hợp lý riêng của chúng. Thế nhưng, hầu như ngoài những nhà toán học thì chẳng mấy ai quan tâm đến con số không; có thể nói người ta đã không cần đến nó từ các nhu cầu bình nhật như cân đo đong đếm.
02/07/2010(Xem: 5135)
Sự hiện hữu của mỗi chúng ta hiện giờ và ở đây là do, từ, bởi nhiều nguyên nhân và điều kiện. Tôi có mặt ở đây là nhờ cha mẹ tôi đã lấy nhau, nhờ gia đình nuôi dưỡng
01/07/2010(Xem: 5541)
Vô thường, phụ thuộc vào sự biến đổi, là tính chất của các pháp hữu vi. Hãy tinh tấn”. Đó chính là lời nhắc nhở cuối cùng của Đức Phật Cồ-đàm đối với hàng đệ tử của Ngài. Và khi Đức Phật đã nhập Niết-bàn, Trời Đế Thích than rằng:
26/06/2010(Xem: 4507)
Quyển luận này nhằm mục đích nhắc nhở người xuất gia phải nổ lực tu hành, để được giải thoát nên được đề tựa là Cảnh Sách; “Qui Sơn Cảnh Sách” là luận Cảnh Sách của Ngài Qui Sơn.Đây là bộ luận mà trong thiền môn nói riêng, giới xuất gia nói chung, coi như kinh của Phật. Thế nên ai xuất gia vào chùa, trong thời gian đầu học làm Sa Di, đều phải học thuộc lòng ba quyển gọi là Phật Tổ Tam Kinh; Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Kinh Di Giáo, Qui Sơn Cảnh Sách.
24/06/2010(Xem: 7592)
Vào năm 1946, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đưa ra định nghĩa về sức khỏe là “tình trạng hoàn toàn thư thái cả về thể chất, tinh thần, lẫn các quan hệ xã hội, chứ không chỉ là tình trạng không có bệnh hay không bị thương tật”. Định nghĩa này cho thấy thân và tâm của con người dính liền với nhau như hình với bóng, và có sức khỏe có nghĩa “thân tâm an lạc”. Điều hết sức thú vị nằm ở chỗ đối với những ai là con nhà Phật thì không phải đến bấy giờ, tức thời điểm WHO đưa ra định nghĩa, mà từ rất lâu rồi các Phật tử vẫn thường chúc nhau và chúc mọi người: “thân tâm thường an lạc”.
21/05/2010(Xem: 18459)
Giáo hội Phật giáo Việt nam thống nhất ra đời với sứ mạng thừa kế sự nghiệp truyền trì đạo giáo cao cả của đức Bổn Sư Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Phật, mà liệt Tổ truyền giáo đã dày công xây dựng trên mảnh đất Việt nam thân yêu này, với một cơ đồ vững chắc tốt đẹp hơn hai nghìn năm lịch sử. Chưa có một Đạo giáo, học thuyết nào trong quá khứ đã có một ảnh hưởng, một thọ mạng, một địa vị hơn thế được, đối với xứ sở này. Thật vậy, lịch sử truyền giáo của Phật giáo Việt nam là một lịch sử gắn liền với lịch sử giữ nước, dựng nước của dân tộc Việt nam. Điều đó không ai phủ nhận được và cũng không có tổ chức nào trong quá khứ có trang sử vẻ
10/03/2010(Xem: 12280)
ĐẠO TỪ CỦAHOÀ THƯỢNG THÍCH TRÍ THỦ VIỆN TRƯỞNGVIỆN HOÁ ĐẠO
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]