Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

27-Học Phật bằng cách nào?

28/01/201109:41(Xem: 8817)
27-Học Phật bằng cách nào?

BƯỚCÐẦU HỌC PHẬT

HòathượngThích Thanh Từ
PhậtLịch 2541-1998

HọcPhật bằng cách nào?

Hỏi học Phật bằng cách nào, tức là hỏi đến phương pháp họcPhật. Ở thế gian môn học nào cũng có phương pháp riêngcủa nó. Ví như môn toán học, người học trò trước phảibiết số, kế học thuộc cửu chương, học cách cộng trừnhân chia, lên nữa phải học công thức, phương trình v.v...Môn văn chương, trước phải biết chữ cái, học ráp vần,viết chánh tả, học văn phạm, tập cách làm văn v.v... Phươngchi Phật pháp là môn học giác ngộ, mà không có phương phápriêng của nó hay sao?

Phươngpháphọc Phật tức là ba môn tuệ học: Văn tuệ, Tưtuệ, và Tu tuệ. Bởi vì muốn vào cửa giác ngộ khôngphải anh tướng trí tuệ thì không sao vào được. Phật pháplà chân lý là những sự thật, nếu không có ngọn đuốctrí tuệ soi sáng, làm sao chúng ta thấy mọi sự thật ở chungquanh, không cần trí tuệ, chỉ dùng lòng tin đến với đạoPhật, để học Phật pháp, thật là sai lầm lớn lao. Ðâylà chứng bệnh trầm trọng của Phật tử hiện thời. Cầnchữa lành bệnh này, chúng ta phải ứng dụng triệt để bamôn tuệ học vào công trình tu học Phật pháp.

Thếnào là Văn tuệ?

Vănlà nghe, do nghe giáo lý Phật pháp trí tuệ mở sáng, gọi làVăn tuệ. Chúng ta nghe Phật pháp qua lời giảng dạy của chưtăng, của thiện hữu tri thức đã tu học trước ta. Nhữnglời giảng dạy ấy xuất phát từ kinh điển của Phật, trongđó chứa toàn lời lẽ chân chánh, chỉ bày mọi sự thậtcho chúng sanh. Càng nghe trí tuệ chúng ta càng sáng. Hoặc chúngta trực tiếp đọc kinh sách Phật, khiến mở mang trí tuệcũng thuộc Văn tuệ. Chịu khó nghe giảng dạy, ch?u khó nghiêncứu kinh sách Phật, đó là người biết từ cửa Văn tuệtiến thẳng vào ngôi nhà Phật pháp.

Thếnào là Tư tuệ?

Tưlà suy xét phán đoán, do suy xét phán đoán những lời dạytrong Phật pháp, trí tuệ càng tăng trưởng. Chúng ta đượcnghe lời chỉ dạy của thầy bạn, dẫn từ trong kinh Phậtra, song nghe rồi tin liền là chưa đủ tư cách học Phật.Buộc chúng ta phải dùng trí phán đoán xem đúng hay sai, nếuquả thật đúng, từ đó chúng ta mới tin. có thế mới thựchành đúng câu "các người phải tự thắp đuốc lên mà đi,thắp đuốc lên với chánh pháp", trong kinh Pháp Cú. Chúng tamuốn mở mang trí tuệ, song tự mình làm sao mở được, phảimồi ngọn đuốc trí tuệ của mình với ngọn đuốc chánhpháp của Phật, trí tuệ mới phát sáng.

Mồibằng cách nào?

Vínhư chúng ta nghe vị Sư giảng rằng: "Tất cả thế gian đềulà vô thường." Sau đó phải dùng trí tuệ của mình phánđoán xem đúng hay không. Chúng ta tự đặt câu hỏi: tất cảthế gian đều là vô thường, có sự vật nào thoát ngoàiluật lệ ấy chăng? Nếu có, câu nói này chưa phải chân lý.Bằng không, mới thật đúng chân lý, chúng ta sẽ hoàn toàntin. Thế rồi, ta tự khảo sát :

Conngười có phải vô thường không? Từ ông bà đến cha mẹchúng ta đều có sanh ra, lớn lên, bệnh hoạn, già yếu rồichết. Kể luôn cả ta, khi nào còn nhỏ bé, lớn lên, bệnhhoạn, già yếu, rồi cũng sẽ chết. Trong gia đình thân tộcchúng ta đã thế, ngoài xã hội cũng thế, cả nhân loại trênthế giới cũng thế; ngàn xưa là thế, mãi sau này cũng thế.Quả là con người vô thường.

Ðếnnhững sự vật, nào nhà cửa, bàn ghế, xe cộ... có bị vôthường không? Chính cái nhà của mình, khi mới cất thì tốtđẹp lành lặn, qua vài ba năm thấy cũ dần, đến năm mườinăm thì hư sập. Cái bàn viết cũng thế, khi mới đóng xembóng loáng tốt đẹp, dùng mấy năm thấy đã cũ, tróc sơnkhờn mặt, rồi đây sẽ mục nát hư hoại. Chiếc xe đạpkhi mới mua đem về mới toanh, chạy được một năm vỏ đãrách, cổ lỏng, các con ốc lờn... vài năm nữa sẽ hư. Thếlà, nhà cửa, bàn ghế, xe cộ... những vật cần dùng bêncạnh chúng ta thảy bị vô thường chi phối. Cho đến trămngàn vật khác, nếu khảo sát đều thấy đồng một số phậnnhư nhau.

Chúngta có thể kết luận rằng: "tất cả thế gian là vô thường",quả thật là chân lý. Ta tin chắc lẽ này, dù có ai nói khácđi, cũng không làm lay động được lòng tin của ta. Bởi lòngtin này đã được gạn lọc qua sàng lý trí, nên nó vữngchắc không dễ gì làm lung lay.

Lạimột thí dụ, chúng ta nghe vị Sư giảng lý luân hồi, bảorằng: "Muôn vật ở thế gian đều xoay quanh vòng luân hồi."Ta tự đặt câu hỏi: Tại sao muôn vật đều luân hồi? Cóvật nào không luân hồi chăng? Chúng ta bắt đầu xét từthực vật:

Câycối thành hình bắt nguồn từ hạt, hạt nẩy mầm tăng trưởngthành cây, nở hoa, kết trái; trái sanh hạt, hạt lại nẩymầm... lộn đi đảo lại không cùng. Song đó là sự lộnđi đảo lại từ cây này sang cây khác, ngay bản thân câyấy có đảo lộn vậy không? Cũng lộn đi đảo lại như thế.Thân cây hiện sống đây, do châm rễ hút đất nước... nuôidưỡng mới được sanh trưởng, dần dần thành đại thọ.Rễ hút đất nước nuôi dưỡng thân cành lá, lá rụng biếnthành phân đất, cành gãy mục cũng thành phân đất, thâncây ngã mục cũng trở về đất nước. Thân cây nhờ đấtnước sanh trưởng, khi ngã mục lại trở về đất nước.

Nướcdo ánh nắng bốc thành hơi, hơi lên cao gặp khí lạnh đọnglại, rơi xuống thành nước; nước lại bốc hơi... mãi mãikhông cùng.

Tonhư quả địa cầu vẫn quay tròn quanh cái trục, sáng rồitối, tối lại sáng. Căn cứ vào sự quay tròn của nó, ngườita chia ra ngày giờ tháng năm, thời tiết xuân hạ thu đông,xoay vần thế mãi không cùng.

Dosự khảo sát trên, chúng ta khẳng định rằng "muôn vật ởthế gian đều xoay quanh vòng luân hồi", là sự thật khôngcòn gì phải nghi ngờ.

Trênđây tạm cử vài thí dụ làm căn bản cho công cuộc suy xétphán đoán Phật pháp. Căn cứ vào đây, chúng ta phán xét nhữnglời Phật dạy, hoặc chư tăng dạy trong những trường hợpkhác. Có thế, mới phân biệt được chánh tà và mới đúngtinh thần người học Phật.

Thếnào là Tu Tuệ?

Saukhi phán xét lời Phật dạy là đúng, chúng ta đem áp dụngtrong cuộc sống hằng ngày của mình, khiến chánh lý càngbày hiện sáng tỏ, là tu tuệ. Ví như, đã biết rõ "tấtcả thế gian là vô thường", chúng ta ứng dụng sự vô thườngvào đời sống của mình, trong những trường hợp như sau:

Ðãbiết rõ thế gian là vô thường, khi gặp vô thường đếnvới bản thân, với gia đình ta, ta vẫn giữ bình tĩnh khônghốt hoảng hãi sợ. Vì biết chắc điều đó ở thế giankhông ai tránh khỏi, sợ hãi kinh hoàng chỉ làm rối thêm vôích. Bởi không sợ nên tâm ta bình tĩnh sáng suốt, giải quyếtmọi việc một cách tốt đẹp. Chúng ta vẫn đủ sáng suốtđể khuyên giải cho những người đồng cảnh ngộ bớt đaukh?.

Biếtrõ thế gian là vô thường, mọi sự tranh giành danh lợi, tàisắc... lòng ta nguội lạnh. Tranh giành những thứ tạm bợấy làm gì, để rồi chuốc khổ về mình, gây đau khổ chongười, rốt cuộc chỉ thành việc mò trăng bắt bóng. Lòngtham lam giành giật dục lạc thế gian, do đây dứt sạch.

Dothấy rõ lẽ vô thường, chúng ta không thể ngồi yên chờchết. Phải cố gắng làm mọi việc lành, nếu cơn vô thườngđến, chúng ta có muốn làm cũng không sao làm được. Lạibiết quí tiếc thời giờ, một ngày qua rồi không tìm lạiđược, phải cấp bách nỗ lực làm lợi mình lợi người,không thể chần chờ.

Ðólà ba trường hợp do biết "thế gian vô thường", chúng takhéo ứng dụng tu hành trong cuộc sống hiện tại của mình.Bao nhiêu sự lợi ích tốt đẹp sẽ theo đó mà tăng trưởng.Sự tu hành ấy, đi đôi với tâm trí tỉnh táo sáng suốt,nên gọi là "Tu tuệ".

Vídụ khác, chúng ta nhận rõ "muôn vật luân hồi", liền ứngdụng lý luân hồi vào cuộc sống của mình. Nếu phải luânhồi, chúng ta chọn cái luân hồi nào tốt đẹp an ổn hơn.Ví như, biết các loài thảo mộc từ hạt nẩy mầm, sanh trưởngthành cây, đơm hoa, kết quả; hạt lại nẩy mầm... Chúngta nên chọn lựa hạt tốt giống ngon đem ương, để sau nàykết quả ngon, cho ta và mọi người được thưởng thức vịngon. Cũng thế, trong vòng luân hồi bản thân ta cũng khôngthoát khỏi, ta cần tạo những nhân tốt, nhân an vui, đểmai kia có lăn lộn cũng lăn lộn trong chỗ tốt, chỗ an vui.

Ðãbiết muôn vật luân hồi, chúng ta phải tìm xem nguyên nhânnào lôi cuốn vào trong ấy. Biết rõ nguyên nhân rồi, phảitìm cách thoát ra ngoài vòng luân hồi. Không đầu hàng khuấtphục, để chịu lăn mãi trong luân hồi. Như các nhà khoa họcnghiên cứu biết sức hút của quả đất, sau đó tìm cáchchế phi thuyền đủ sức mạnh vượt ra ngoài vòng hút củaquả đất, đi thẳng vào quĩ đạo v.v... Biết luân hồi đểtìm cách thoát ra, chính là tinh thần "Tu tuệ".

Văntuệ, Tư tuệ rất cần thiết, song Tu tuệ lại càng quan trọnghơn. Nếu có văn tuệ, tư tuệ mà thiếu tu tuệ thì chỉ làtuệ rỗng, không lợi ích thiết thực cho đời sống con người.Nhờ tu tuệ mới thẩm định được giá trị văn, tư ở trênvà giúp cho văn, tư được kết quả viên mãn.

Vìthế, đức Phật dạy hàng Phật tử đi chùa là cốt gặpSư tăng, Sư ni, gặp Tăng ni rồi cần phải thưa hỏi Phậtpháp, thưa hỏi xong phải ghi nhớ, ghi nhớ rồi cần phán xét,phán xét rồi phải tiến tu. Ðược vậy mới đúng tinh thầnPhật tử (Phỏng theo bài kinh Ma-ha-nam trong Tạp A-hàm). Bồ-tátQuán Thế Âm cũng trình với Phật, thuở quá khứ lâu xa Ngàigặp Phật dạy tu phương pháp văn, tư, tu được vào chánhđịnh và cho hiệu là Quán Thế Âm (Kinh Lăng Nghiêm). Chínhtrong giới Bồ-tát, Phật cũng dạy "dù ở xa trăm ngàn dặm,nghe có người nói kinh luật, người mới thọ giới Bồ-tátcũng phải mang kinh luật đến đó học (Kinh Phạm Võng). Quảnhiên đức Phật không chấp nhận đệ tử tu hành tối dốt,phải đầy đủ ba môn Tuệ học, mới xứng là đệ tử củaNgài.

Bamôn Tuệ học này hoàn toàn thích hợp với tinh thần khoa họchiện nay. Bất luận môn học nào, trước tiên học lý thuyết,kế phê bình lý thuyết, sau thí nghiệm hay thực hành lý thuyết.Lý thuyết tức là văn tuệ, phê bình tức là tư tuệ, thínghiệm tức là tu tuệ. Có như vậy môn học mới tiến bộvà phát minh những điều mới lạ.

Tuynhiên, về mục tiêu chánh yếu Phật học vẫn khác khoa học.Khoa học cốt phát minh mọi sự thật của ngoại giới, chinhphục giành quyền làm chủ thiên nhiên, bắt thiên nhiên làmtheo ý muốn con người, để tạo vật chất dồi dào sung túccho nhân loại. Phật học xoay lại ngự trị bản thân mình,gạn lọc đào thải những tâm thức nhơ xấu, kiến tạo mộttâm hồn trong sáng an vui tự tại. Bởi khoa học gây tạo điềukiện vật chất dồi dào, nên con người dễ tranh đua giànhgiật kình chống lẫn nhau, Phật học cốt xây dựng tâm hồntrong sáng, nên người biết tu theo, lòng sẽ mở rộng thươngyêu bảo bọc lẫn nhau.Vì thế, ba môn tuệ học đều đặtcăn cứ trên nguyên tắc "xem lại chính mình". Nắmvững nguyên tắc này, đọc kinh sách Phật, chúng ta nhận địnhphán xét không bị sai lẫn.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/12/2013(Xem: 20350)
Nhóm Vi Trần vừa hoàn tất xong bộ Danh mục Đại Tạng Phật giáo Tây Tạng: Kangyur-Tengyur khoảng trên 5000 tên các tác phẩm Kinh Luận thuộc về truyền thừa Nalanda Danh mục bao gồm 4 ngôn ngữ Tạng - Phạn (dạng Latin hóa) - Hoa - Việt Đính kèm là 3 tập tin đã đươc trình bày theo các dạng: 1. Tang-Phạn-Hoa-Việt 2. Phạn-Tạng-Hoa-Việt 3. Hoa-Tạng-Phạn-Viêt
11/12/2013(Xem: 35086)
Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác là con nhà họ Đới ở Châu Ôn . Thuở nhỏ học tập kinh, luận và chuyên ròng về phép Chỉ quán của phái Thiên Thai. Kế, do xem kinh Duy Ma mà tâm địa phát sáng. Tình cờ có học trò của sư Huệ Năng là thầy Huyền Sách hỏi thăm tìm đến. Hai người trò chuyện hăng say.
10/12/2013(Xem: 24221)
Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với câu chuyện đời của Đức Phật. Chúng ta biết rằng thái tử Siddhattha đã rời bỏ cung điện lộng lẫy của vua cha, để bắt đầu cuộc sống không nhà của người lữ hành lang thang đi tìm con đường tâm linh, và sau nhiều năm tu hành tinh tấn, Ngài đã đạt được giác ngộ khi đang nhập định dưới gốc cây bồ đề. Sau khi xả thiền, Đức Phật đã đi đến thành phố Benares, giờ được gọi là Varanasi. Ở đó, trong Vườn Nai, lần đầu tiên Ngài thuyết pháp về những gì Ngài đã khám phá về con đường đi đến hạnh phúc toàn vẹn. Lời dạy của Đức Phật rất đơn giản nhưng sâu sắc.
07/12/2013(Xem: 21707)
Phật Ngọc, ước nguyện hòa bình thế giới
03/12/2013(Xem: 57657)
Người ta thường nói :"Ăn cơm có canh, tu hành có bạn". Đối với tôi, câu nói này thật là quá đúng. Ngày nhỏ chưa biết gì nhưng từ khi làm Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử tôi đã thấy ích lợi của một Tăng thân. Chúng tôi thường tập trung thành từng nhóm 5,7 người để cùng nhau tu học. Giai đoạn khó khăn nhất là sau 75 ở quê nhà. Vào khoảng 1985, 86 các anh lớn của chúng tôi muốn đưa ra một chương trình tu học cho các Huynh Trưởng trong Ban Hướng Dẫn Tỉnh và những Htr có cấp nên đã tạo ra một lớp học Phật pháp cho các Htr ở Sàigòn và các tỉnh miền Nam. Nói là "lớp học" nhưng các Chúng tự học với nhau, có gì không hiểu thì hỏi quý Thầy, các Anh và kinh sách cũng tự đi tìm lấy mà học. Theo qui định của các Anh, Sàigòn có 1 Chúng và mỗi tỉnh có 1 Chúng. Chúng tu học của chúng tôi (Sàigòn) có tên là Chúng Cổ Pháp và phải thanh toán xong các bộ kinh sau đây trong thời gian tối đa là 3 năm:
16/11/2013(Xem: 27398)
Tên tục của tôi là Trai. Dòng họ xuất thân từ Lan Lăng là hậu duệ của vua Lương Võ Đế. Gia tộc cư ngụ tại tỉnh Hồ Nam, huyện Tương Lương. Cha tên Ngọc Đường, mẹ tên Nhan Thị. Năm đầu đời nhà Thanh, cha làm quan tại tỉnh Phú Kiến. Năm mậu tuất và kỷ hợi làm quan tại châu Vĩnh Xuân. Cha mẹ đã ngoài bốn mươi mà chưa có mụn con. Mẹ ra ngoài thành nơi chùa Quán Âm mà cầu tự. Bà thấy nóc chùa bị tàn phá hư hoại, lại thấy cầu Đông Quan nơi thành không ai sửa chữa nên phát nguyện trùng hưng kiến lập lại. Đêm nọ, cả cha lẫn mẹ đều nằm mơ thấy một vị mặc áo xanh, tóc dài, trên đỉnh đầu có tượng Bồ Tát Quán Thế Ấm, cưỡi hổ mà đến, nhảy lên trên giường. Mẹ kinh sợ, giật mình thức dậy, liền thọ thai. Cuối năm đó cha đi nhậm chức tại phủ Nguyên Châu.
26/10/2013(Xem: 62447)
Cuộc đời đức Phật là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều sử gia, triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cổ, nhạc sĩ, họa sĩ, những nhà điêu khắc, nhà viết kịch, phim ảnh, sân khấu… Và hàng ngàn năm nay đã có vô số tác phẩm về cuộc đời đức Phật, hoặc mang tính lịch sử, khoa học hoặc phát xuất từ cảm hứng nghệ thuật, hoặc từ sự tôn kính thuần tín ngưỡng tôn giáo, đủ thể loại, nhiều tầm cỡ, đã có ảnh hưởng sâu xa trong tâm khảm biết bao độc giả, khán giả, khách hành hương chiêm bái và những người yêu thích thưởng ngoạn nghệ thuật.
17/10/2013(Xem: 6869)
Đức Phật chỉ ra rằng: mọi vật có hình tượng, có thể chất đều sinh diệt, thay đổi không ngừng. Sự thay đổi của vạn vật là định luật. Định luật này chi phối mọi lãnh vực cuộc sống, không ràng buộc bởi thời gian, không gian.
17/10/2013(Xem: 39771)
50 năm qua, cuộc tranh đấu của Phật giáo năm 1963 chống chính quyền Đệ nhất Cọng hòa do Tổng thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo đã đàn áp Phật giáo. Sự việc đã lui về quá khứ nhưng vết thương trong lòng dân tộc, trong tim của Phật tử Việt Nam thì vẫn còn đó và có lẽ mãi còn trong lịch sử đau thương mà cũng lắm hào hùng.
17/10/2013(Xem: 29941)
Là nhân chứng sống động của lịch sử, của dòng đời, ai cũng thế. Sinh ra giữa cõi trần, có tai phải nghe, có mắt phải thấy, dù muốn nghe, muốn thấy hay không. Sống, có óc phải suy tư, có miệng phải nói, có chân phải đi, có tay phải làm. Nhưng phải biết nên nghĩ gì, nói gì, đi đâu, làm gì ! Sống, có bạn để tâm sự, có con để trao truyền. Tâm sự chuyện gì, trao truyền cái gì? Tôi tự hỏi và trải lòng ra cho ai muốn thấy tim tôi đang nhảy, phổi tôi đang thở và mỗi tế bào sinh diệt trong bất diệt của chân như. Chỉ xin đừng làm bác sĩ giải phẫu chân dung của tôi, nhưng nếu muốn thì cứ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]