Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bố thí tùy duyên

22/01/201103:49(Xem: 3355)
Bố thí tùy duyên

BỐ THÍ TÙY DUYÊN

Có một gia đình muốn mở tiệc nhân ngày sinh nhật của đứa con, nhưng nhà quá nghèo không biết xoay sở sao cho đủ phương tiện đãi khách.

Còn khoảng một tháng nữa là tới ngày sinh nhật, nhà có nuôi một con bò sữa, nên gia đình muốn bữa tiệc hôm ấy phải có món sữa bò tươi, thế là hai vợ chồng nhất trí từ nay đến ngày sinh nhật con, không vắt sữa hàng ngày nữa, mà để dành đến ngày sinh nhật con vắt luôn một thể.

Đến ngày sinh nhật, hai vợ chồng vui mừng tin chắc rằng, gia đình sẽ vắt được rất nhiều sữa đãi khách. Nào ngờ, cả hai vợ chồng cố vắt mãi, nhưng chẳng được giọt sữa nào. Hai vợ chồng buồn bã, hỡi ôi! Xem như trận này gia đình mất “cả chì lẫn chài,” uổng công cả tháng trời để dành, mà nay con bò không cho lấy một giọt sữa. Và cũng từ đây, con bò bị tắt sữa luôn, không có khả năng sản xuất sữa được nữa, vì lâu ngày không vắt sữa.

Câu chuyện trên đã cho ta một kinh nghiệm sống trong cuộc đời. Với quan niệm chờ cho có nhiều tiền rồi mới thực hành hạnh bố thí không khác gì chuyện để dành sữa ở con bò, không có cơ hội có sữa. Nếu ta muốn thực hành bố thí mà nghĩ như vậy thì suốt đời, suốt kiếp ta không giúp gì được cho ai, vả lại, nó sẽ làm lép đi hạt giống từ bi trong ta. Bố thí có nhiều cách, nếu không có tiền của, thấy người khác bố thí, cúng dường ta sanh tâm hoan hỷ, vui theo thì ta và người bố thí đều có phước báu bằng nhau.

Ngày xưa, có một vị Tỳ-kheo nghe nói như vậy, mới thắc mắc hỏi đức Phật: Người bố thí, cúng dường có phước là lẽ đương nhiên, còn người tùy hỷ vui theo tại sao có phước ngang bằng? Đức Phật đưa ra một ví dụ: Có người đang đốt một ngọn đèn, rồi có hàng trăm người đem đèn tới mồi theo. Ta thấy, ngọn đèn kia vẫn cháy sáng không mất, và hàng trăm ngọn đèn khác cũng được cháy lên tỏa sáng khắp nơi.

Cũng vậy, người cúng dường được phước giàu sang trong hiện tại và mai sau là lẽ đương nhiên rồi. Còn người tùy hỷ khi thấy người khác thực hành bố thí, cúng dường, không sanh tâm tật đố, ganh ghét được phước không nóng giận, bởi nóng giận dễ dẫn đến hận thù, rồi tìm cách trả đũa không có ngày dứt. Do không ganh ghét, tật đố, oán giận nên người ấy sống được an lành, hạnh phúc. Vì thế đức Phật nói hai người phước báu bằng nhau là như vậy.

-Bố thí có hai dạng: Bố thí trong sạch và bố thí không trong sạch.

-Bố thí vì cầu danh muốn ai cũng biết đến mình, thấy mình là trung tâm của vũ trụ mình hơn người không ai bằng.

Hoặc vì ganh ghét mà bố thí, bố thí cho bỏ ghét, hoặc bố thí vì muốn dụ dỗ người ta mê hoặc lòng người, bố thí để chứng tỏ mình là người giàu có hơn người hay bố thí để lấy lòng cấp trên. Nói tóm lại tất cả hành vi bố thí vì tư lợi cá nhân, vì tâm xấu xa, ích kỷ, vì tâm muốn hơn người được gọi chung là bố thí không trong sạch. Còn các hành động bố thí:

- Vì thương người mà cho,

- Vì bổn phận mà cho,

- Vì hy sinh mà cho,

- Vì giác ngộ mà cho.

Thực hành bố thí như trên là vì lợi ích cho người được gọi là bố thí trong sạch, ta vì tâm từ bi, vì lòng thương người mà bố thí, không có tâm mong cầu người biết ơn hay đền ơn đáp nghĩa. Người bố thí cúng dường với tâm bình đẳng không phân biệt thân sơ, tùy duyên cúng dường giúp đỡ không tính toán lợi hại thì mới được phước báu không thể nghĩ bàn.

Tóm lại, người bố thí cúng dường với tâm bình đẳng, không phân biệt thân sơ, tùy duyên mà bố thí cúng dường thì người đó được gọi là người đại bố thí hay đại thí chủ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/07/2016(Xem: 13913)
Đại Trưởng lão Bửu Chơn, một bậc cao tăng, đạo cao đức trọng của Phật giáo Nguyên Thủy, ngài có hơn 10 năm tu hạnh đầu đà ở núi rừng Campuchia. Trở về Việt Nam, ngài là người tu học khá sớm ở Tổ đình Bửu Quang vào khoảng thập niên 40. Ngài là thành viên sáng lập Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam và Tăng thống nhiệm kỳ Ban Chưởng quản lâm thời vào năm 1957
24/04/2016(Xem: 31491)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
09/03/2016(Xem: 11101)
Tôi cầm trên tay bộ sách 2 cuốn “Phật pháp vấn đáp” của Hòa thượng Thích Giác Quang. Và tôi đọc ngay. Đọc ngay lập tức. Sách xuất bản sát tết âm lịch để chào mừng Tết Sách và là sách lỳ xì nhân năm mới.
18/12/2015(Xem: 14493)
Thuở xưa, đức Phật với nắm lá trong tay, hỏi chư tỳ-khưu rằng: “Số lá trong bàn tay của Như Lai, so với lá trong rừng, ở đâu nhiều hơn?” Khi chư tỳ-khưu đáp“Lá trong rừng nhiều hơn”, đức Phật bèn nói tiếp: “Cũng vậy, những thấy biết của Như Lai nhiều như lá cây trong rừng, nhưng những điều Như Lai đem ra giảng nói chỉ như nắm lá ít ỏi trong bàn tay này thôi! Tại sao vậy? Vì những điều không cần thiết, những điều không đem đến cho chúng sanh thấy khổ và diệt khổ, không đem đến giải thoát tham ưu và phiền não ở đời, Như Lai không nói, Như Lai không thuyết!”
23/09/2015(Xem: 4467)
Đức Phật Bản Sư Thích Ca Mâu Ni đã giảng kinh chuyển pháp luân tứ thánh đế, tại vườn Lộc Uyển, cho năm anh em Kiều Trần Như, tứ thánh đế hay tứ diệu đế là bốn chân lý chắc thật về khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế. Đức Thế Tôn đã tam chuyển thập nhị hành, là thị chuyển, khuyến chuyển, chứng chuyển. Thị chuyển tứ thánh đế là việc giới thiệu về bốn chân lý chắc thật khổ, tập, diệt, đạo, để giúp cho chúng ta hiểu thấu được bản chất của nó. Khuyến chuyển tứ thánh đế là việc khuyên bảo chúng ta tu hành theo pháp tứ thánh đế để sớm đoạn diệt được hết khổ đế, được giải thoát giác ngộ chân lý chứng đắc tứ thánh quả. Chứng chuyển tứ thánh đế đó là cảnh giới chứng đắc tứ thánh quả. Khi nghe xong bài pháp chuyển pháp luân tứ thánh đế trên, năm anh em Kiều Trần Như liền giác ngộ chân lý, chứng đắc tứ thánh quả. Như vậy, đức Thế Tôn chuyển pháp luân tứ thánh đế, giúp ích cho chúng ta hiểu thấu được bốn chân lý khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế, biết được chúng ta cũng như tất cả chúng sinh từ đâu đến
01/07/2015(Xem: 26878)
Trên bước đường tu học Phật, ít nhiều gì, Phật tử cũng thường hay gặp phải những thắc mắc, nghi vấn các vấn đề mà tự mình chưa có thể tìm ra giải đáp. Có những nghi vấn mang tính chất thuần túy kinh điển, nặng về phần nghiên cứu học thuật. Bên cạnh đó, cũng có những nghi vấn liên quan thiết thân trong đời sống sinh hoạt hằng ngày mà bất cứ người Phật tử nào cũng gặp phải trong khi tu học. Khởi đi từ yếu tố thiết thực đó và cũng muốn để trao đổi trong nhu cầu nghiên cứu, học hỏi Phật pháp, nhứt là đối với những người hằng quan tâm đến Phật giáo, suốt thời gian qua, trong các khóa tu học ngắn hay dài hạn, đều có đề ra mục Phật Pháp Vấn Đáp, để cho quý Phật tử nêu ra những nghi vấn thắc mắc. Và những nghi vấn thắc mắc nầy, đã được thầy Phước Thái gom góp lại để giải đáp thành 100 Câu Hỏi Phật Pháp. Năm 2010, 100 Câu Hỏi Phật Pháp tập 2 đã được ấn hành 1500 bản. Sách ấn hành chỉ trong khoảng thời gian rất ngắn thì số lượng sách đã không còn. Từ đó đến nay (2015), trải qua thời gian 5 năm
15/06/2015(Xem: 19987)
Yếu chỉ tu tập & hành đạo. Tác giả Thích Thái Hòa
26/05/2015(Xem: 6633)
Cuốn sách này được dịch nguyên văn từ tác phẩm Buddhism key stage one của Jing Yin Ken Hudson. Tôi dịch cuốn sách này và gửi đến Thư viện Hoa Sen với các lý do : - Đạo Phật được truyền bá rộng rãi cho mọi người. Đặc biệt là các em thiếu nhi. Những mầm non cho tương lai mai sau. Các em cần phải hiểu biết Đạo Phật. - Đây là món quà thành kính dâng lên Đức Phật, mong ngài ban phước lành cho mọi người; cho gia đình tôi; cho bạn bè; cho tất cả mọi người. Rất mong Thư viện Hoa Sen duyệt và chọn đăng để làm tài liệu cho các em thiếu nhi học tập.
26/05/2015(Xem: 8617)
Lúc thiếu thời, Đức Phật đã có những suy nghĩ giống thiếu nhi hôm nay. Các cháu tự hỏi tại sao bị sốt. Tự hỏi tại sao ông bà các cháu lại chết. Tại sao những ước mơ của các cháu không phải là sự thật. Các cháu tự hỏi về vẻ đẹp và hạnh phúc của cuộc đời. Bởi vì Đức Phật biết rõ suy nghĩ của trẻ em nói riêng và loài người nói chung, Ngài dạy chúng ta làm thế nào để sống hạnh phúc và có cuộc sống thanh bình. Đạo Phật không phải là niềm tin mù quán vào nơi xa lạ nào đó.
15/05/2015(Xem: 22731)
Thể theo lời yêu cầu của các bạn Đạo, tôi chọn một số bài nói chuyện về Phật pháp của tôi tại Tổ Đình Từ Quang ở Montréal và một vài nghi thức tụng niệm để in thành cuốn sách này, với hy vọng phổ biến Phật pháp. Cuốn sách được hình thành trong dịp Tết Canh Thìn, nhưng phải đợi đến Tết Dương Lịch 2001 mới đánh máy xong. Trong thời gian chờ đợi này, tôi đã cẩn thận kiểm điểm lại nội dung từng bài, nhưng chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, những mong các bậc cao minh từ bi chỉ điểm cho. Montréal, Tết Dương lịch 2001 Hiển Mật, Đỗ Hữu Trạch
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567