Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sách Tham Khảo & Chú Thích

17/12/201016:30(Xem: 13729)
Sách Tham Khảo & Chú Thích

CHỦ ĐỘNG CÁI CHẾT
ĐỂ TÁI SINH TRONG MỘT KIẾP SỐNG TỐT ĐẸP HƠN

Đức Đạt Lai Lạt Ma
Hoang Phong dịch
Nhà xuất bản PHƯƠNG ĐÔNG TP. Hồ Chí Minh 2010

Sách tham khảo

S.S le Dalai Lama,Comment pratiquer le Bouddhsme, dịch từ tiếng Anh do Yolande du Luard, Plon,2002, Pocket 2003.
- Sens de la vie:réincarnation et liberté, dịch từ tiếng Anh do Michel Cool và Pierre Lafforgue,J’ai lu 2000.
- Kindness,Clarity, and Insight, dịch từ tiếng Tây tạng do Jeffraey Hopkins, Ithaca, N.Y.Snow Lion Publication, 1984.
RINPOCHÉ Lati et JeffrayHOPKINS, La mort, l’État intermédiaire et la Renaissance dans le Bouddhismetibétain. Dharma, 1997.

TSONGKHAPA, Le GrandLivre de la progression vers l’Éveil, vol. 1, Dharma, 1997.

LEKDEN, KENSUR,Compassion et vacuité: méditation d’un supérieur de collège tantrique pratiquede la vacuité, Publié chez Dharma, 1989.

HOPKINS, Jeffray,Bouddhist Advice for Living ang Liberation; Nagarjuna’s Precious Garland.Ithaca, New York; Snow Lion Publication, 1998.
- CultivatingCompassion. New York: Broadway Books, 2001.

WALLACE, Vesna A. and B.Alan WALLACE, A guide to Bodhisattva Way of Life. Ithaca, New York, Snow LionPublications, 1997.

Rinchen, Geshe SONAM andRuth SONAM, Yogic Deeds of Bodhisattvas: Gel-stap on Aryadeva’s Four Hundred,Ithaca, New York, Snow Lion, 1994.

Chú Thích

1 Bodgaya: Phật Già-Đahay Chánh Giác Sơn. Đức Thích Ca đã tham thiền nơi đây và đắc quả Chánh Giác.
2 « Đỉnh kên kên », đỉnhnúi có khối đá hình dáng một con chim kên kên. Kinh sách tiếng Hán và tiếngViệt viết là « Linh thứu sơn », còn gọi tắt là « Linh sơn » (tiếng Phạn làGridharakuta »).

3 Ninh-mã phái (Nyingma)còn gọi là Hồng giáo vì các nhà sư đội mũ màu nâu đỏ. Đây là giáo phái xưa nhấttrong bốn giáo phái chính của Tây tạng.

4 Còn gọi là Tối thươngDu-già Tan-tra hay Vô thượng Du-già Tan-tra: phương pháp tu luyện tối thượng,thành phật trong kiếp này với thân xác này. Tối thượng Du-già Tan-tra xem tâmtịnh là căn bản của mọi phép tu.

5 Còn gọi là Bồ tát VănThù hay Diệu Đức, hay Diệu Cát Tường, hay Diệu Âm, (tiếng Phạn là Manjousrhi),là vị Bồ Tát tượng trưng cho Trí Tuệ và kinh nghiệm giác ngộ bằng phươngtiện Tri Thức.

6 Tăng đoàn

7 Câu này là tiếng Phạn,tạm dịch nghĩa: « Om, Ngọc Quý trong Hoa Sen, Hum » (Om và Hum không cónghĩa nhưng hàm chứa âm hưởng thiêng liêng)

8 Ý câu này có lẽ muốnnói đến sự cân đối giữa tâm linh và thể xác, hàng thú vật phần tâm linh kémhơn.

9 Chẳng hạn trường hợpchó xông vào đám cháy để cứu trẻ em, nhảy xuống sông cứu người chết đuối, hoặctrường hợp cá voi, cá heo cứu người trên biển...

10 Đây là một mệnh đề vềluận lý triết học. Một cách đại cương, sự hiện hữu của xác thân trên đó giáccảm, sự cảm nhận và tâm thức phát triển, là do sự phối hợp của rất nhiều «nghiệp », hay rất nhiều nguyên nhân và điều kiện.

11 Thánh Thiên: têntiếng Phạn là Aryadeva, dịch âm là Đề-Bà, dịch nghĩa là Thánh Thiên Bồ-tát, còngọi là Độc Nhãn Bồ Tát vì giai thoại sau đây: Trên đường từ Tích Lan đến tuviện Nalanda, bắc Ấn độ, ngài gặp một người đàn bà xin một con mắt để tu luyện,ngài liền móc mắt bên phải và cho ngay. Thánh Thiên sinh vào cuối thế kỷ thứ IItại Tích Lan, là một trong những đệ tử quan trọng của Bồ Tát Long Thọ(Nagarjuna), và cũng là tổ thứ 15 của Thiền tông Ấn độ. Ngài trụ trì một thờigian khá lâu tại tu viện Nalanda, trước khi trở về phương Nam. Một trong cáctác phẩm chính của Ngài là « Bốn trăm tiết mục » liên quan đến du-già.

12 Hiện trạng thân thểphì nộm (quá mập), là một lo lắng của các xã hội Tây phương hiện nay.

13 Đức Dạt-lai Lạt-macũng như những nhà sư Tây tạng khác, khi thuyết giảng thường ngồi trong tư thếhoa sen trên một bục gỗ cao trang trí rất đặc biệt.

14 Dịch câu này tôi liêntưởng đến hiện tượng ta gọi là « phép lạ ». Dù phép lạ có thật, xảy ra thậtnhiều và thường xuyên đi nữa, rốt cuộc ta cũng chết. Phép lạ không phải là mộtgiải pháp, cũng chẳng phải là một lối thoát. Nếu « có thật » đi nữa, cũng chỉlà tạm thời và giai đoạn mà thôi, kể cả phép lạ và người làm ra phép lạ, sựthoái hóa và tan rã cũng đã nằm sẵn trong đó.

15 Tsongkapa, dịch âm làTông-Khách-Ba (1357-1419), là một vị Lạt-ma nổi danh của Tây tạng, sáng lậptông phái Cách lỗ (Gelugpa). Ông sinh ở tỉnh Amdo, cùng quê với Đức Đạt-laiLạt-ma XIV. Từ bé đã cực kỳ thông minh, lúc ba tuổi thụ giới với một vị sưthuộc dòng Cát-mã-ba (Karmapa). Trong số những tác phẩm ông đã để lại có thiênluận giải gồm 18 bộ, đã trở thành kinh sách giáo khoa của Phật giáo Tây tạng.

16 Một câu nói rất ýnhị, một vị bác sĩ đương nhiên sẽ hiểu rằng giả thuyết nào sẽ gần với sự thậthơn hết để chuẩn bị.

17 Vô minh, tiếng Phạnlà Avidya, dịch âm là A-vĩ-nễ hay A-vĩ-di, có nghĩa là tâm thức không sáng, ámmuội, u mê, không nhìn thấy bản thể đích thực của mọi vật thể và mọi biến cố.Vô minh cũng có nghĩa gần tương đương với si, si mê (mudha, moha).

18 Giai đoạn trung gian,còn gọi là trung ấm, tức giai đoạn chuyển tiếp giữa hai kiếp sống.

19 Thuộc miền tây bắc Ấnđộ, nơi Đức Dat-lai Lạt-ma lưu trú.

20 Dịch âm là kinhCha-kra sam-va-ra, dịch nghĩa là kinh « Bánh xe đại hạnh ». Một bộ kinh quantrọng của Phật giáo Tây tạng.

21 Dịch âm là kinh Ka-lacha-kra, dịch nghĩa là kinh « Bánh xe thời gian » hay kinh « Thời luân ». Bộkinh rất quan trọng thuộc trường phái của Đức Đạt-lai Lạt-ma. Kinh Ka-lacha-kra là một bộ kinh rất thâm sâu và phức tạp, xuất hiện vào khoảng thế kỷthứ X ở Ấn độ, nhưng theo truyền thống thì bộ Kinh này có nguồn gốc xưa hơn, từthời Đức Phật Thích-ca.

22Phật ứng hiện dưới baxác thân gọi là Tam thân Phật:

-Pháp thân (dharmakya):bản thể của Phật, còn gọi là Chân như.

-Báo thân (vipakakaya):hiện thân của Phật.

-Ứng thân (nirmànakaya):còn gọi là Hoá thân, Ứng hóa thân, Biến hóa thân...có nghĩa Phật ứng hiện ởmuôn ngàn thể dạng khác nhau để tùy cơ dẫn độ chúng sinh.

23 Thanh tịnh độ còn gọilà Tịnh độ, Phật quốc, Phật giới, Phật địa v.v…

24 nKhông được rõ vềlịch sử các nhân vật này và nguồn gốc kinh sách trích dẫn.

25 Tức là sự nhận biết,còn gọi là thức (tiếng Phạn: vijnana), có thể xem tương đương với các chữ nhưtri giác, ý thức hay tri thức, khác nghĩa với tạng thức hay hay A-lại-gia-thức(tiếng Phạn alayavijnana). Học phái Duy Thức xem tạng thức là dạng thể cao nhấtcủa phần tâm thức, là căn bản của mọi hiện tượng. Nghĩa khác biệt nhau giữa cácdanh từ là một trở ngại lớn trong việc dịch thuật. Các chữ thức, tri thức, trigiác...có nghĩa là sự nhận biết, trong khi đó chữ tâm thức hay tâm linh cónghĩa rộng và sâu hơn, gồm cả xúc cảm, sự suy nghĩ, tình cảm, những xung năngtiềm ẩn...

26 Cách mô tả sinh họccủa Tối thượng Du-già Tan-tra là một cách mô tả « ẩn dụ », tức cụ thể hoá vàđơn giản hoá những gì phức tạp hơn, nhắm vào mục đích hướng dẫn sự chú tâm vàthiền định.

27 Đám rối dương (plexussolaire) là một danh từ Y khoa, còn gọi là trung tâm thần kinh thực vật nằmgiữa dạ dày và xương sống.

28 Trẻ vị thành niên ởcác trường học, hoặc trong phòng riêng của chúng thường bày trò chơi bằng cáchdùng dây hay khăn buộc cổ và xiết thật chặt đến lúc gần ngất xỉu (chết) mớibuông ra. Chúng tự làm hay nhờ bạn làm giúp. Giây phút sắp ngất xỉu, vì thiếudưỡng khí lên óc, tạo ra một trạng thái « sảng khoái » (?) hay « hoa mắt » làmcho chúng thích thú. Trò chơi này thường gây nhiều tai nạn chết người, phụhuynh và những người giữ trọng trách giáo dục tại Âu châu thường chú ý canhchừng và cấm đoán. Trường hợp mô tả trên đây là dùng các kỹ thuật du-già (thiềnđịnh) để tìm hiểu những trạng thái sâu kín trong quá trình của cái chết.

29 Bà AlexandraDavid-Néel cũng đã chứng kiến những hiện tượng này, xin xem các sách của bà. BàAlexandra David Neel (1868-1969) là một người phưu lưu và xông pha khác thường,có một trí thông minh vượt bậc. Bà là người phụ nữ Âu châu đầu tiên đến đượcLhasa năm 1924. Bà viết rất nhiều sách về Phật giáo, về Tây tạng, Ấn độ, Trunghoa, và đã từng đến Việt Nam và có viếng đền thờ hai Bà Trưng tại Hà nội, trướckhi tiếp tục đi ngược lên Vân nam thuộc Trung quốc. Sách của bà đã có nhiều ảnhhưởng trong nền tư tưởng Phật giáo Âu châu và thế giới kể cả thế hệ trí thứccủa cha anh chúng ta trong cả hai giai đoạn tiền chiến và hậu chiến. Rất tiếcsách của bà rất ít được dịch sang tiếng Việt. Cụ Đoàn Trung Còn, một học giảlỗi lạc của Việt Nam, có trích dịch sách của bà trong quyển « Mấy thầy tu huyềnbí Tây tạng và Mông cổ » xuất bản năm 1942. Quê của bà ở miền Nam nước Pháp vàngôi nhà trước kia của bà hiện nay đã trở thành một bảo tàng viện trưng bàynhiều di vật, bản thảo các sách của bà ; bàn thờ Phật vẫn giữ nguyên như khi bàcòn sống. Hàng năm rất nhiều người đến viếng và chiêm ngưỡng. Khi Đức Đạt-laiLạt-ma đến miền Nam nước Pháp thuyết giảng, có ghé đến đây và đọc một bài diễnvăn tưởng niệm bà.

30 Tánh không, tiếngPhạn là « Sunyata » có sách viết là không, hư không, hư vô (các kinh sách Tâyphương dịch là vide, vacuité, espace, vacuum, emptyness...). Tánh không của mọihiện tượng, tức mọi vật thể và mọi biến cố, là một khái niệm căn bản của ĐạoPháp. Mọi hiện tượng ta « thấy » và « hiểu », tức cảm nhận được, chỉ là nhữngbiểu lộ tạm thời, phát sinh từ nhiều nguyên nhân và liên hệ với nhiều điều kiện; chúng biến đổi không ngừng, kể cả các nguyên nhân và điều kiện tạo tác rachúng. Đó là bản chất vô thường của mọi vật thể và mọi biến cố, thực tính haybản chất đích thực của chúng là Tánh không.

31 Kinh sách tiếng Việtvà Hán gọi là « giả tướng »

32 Trí tuệ tiếng Phạn làPrajna. Thật ra, trong kinh sách Tây phương cũng như kinh sách tiếng Việt,không có chữ nào tương đương và diễn tả hết ý nghĩa của chữ này. Chữ Prajnadịch âm là: Bát-nhã, Bát-lạt-nhã, Ban-nhã, Bát-la-nhã, Tỳ-bà-xá-na..., dịchnghĩa là Trí, Minh (Sáng), Trí-huệ hay Trí-tuệ...

33 Tiếng nhà Phật là VôMinh (=A-vĩ-di, Avidya).

34 Nhà bác học và triếtgia Pháp Blaise Pascal, thuộc thế kỷ XVII, đã phát biểu một câu nổi tiếng nhưsau: « Tôi suy nghĩ tức là tôi hiện hữu » (Je pense donc je suis). Vậy ta thửhỏi trước khi ta suy nghĩ, ta có hiện hữu hay không? Giữa hai sự suy nghĩ haysau một sự suy nghĩ (vì lý do này hay lý do khác, bắt buộc hay tự ý: xao lãng,ngất xỉu...), ta có hiện hữu hay không? Vậy sự hiện hữu của ta dính liền vớimột điều kiện phải có là sự suy nghĩ, sự suy nghĩ của ta lại dính liền với vô sốnhững điều kiện khác nữa, chẳng hạn như thân xác ta, tâm thức ta, sự học vấncủa ta, ngay cả sự hiện hữu của ta, v.v. và v.v…

35 Tức là giới luật củanhững vị Bồ tát, gọi là Bồ Tát Giới, gồm 10 điều nghiêm cấm hệ trọng và 48 điềunghiêm cấm thứ yếu. Điều 8 trong 10 điều nghiêm cấm hệ trọng là sự Ganh ghét.

36 Tông-khách-ba(Tsongkhapa) (1357-1419): là một vị Lạt-ma Tây tạng, sáng lập giáo phái Cách lỗ(Gelugpa)

37 Khi ta không thấy sựhiện hữu nội tại hay tự tại của mọi hiện tượng, ta cho là chúng không có, khônghiện hữu đích thực (Tánh không). Nhưng ta không thể phủ nhận cơ sở, tức đốitượng của những gì ta đang tìm kiếm. Rốt lại, ta nhận ra rằng những gì ta tìmkiếm và những gì ta phủ nhận cũng chỉ có bằng tên gọi hay danh xưng mà thôi.

38 Có thể tạm hiểu như «thực tính » của một hiện tượng.

39 Tức ba giai đoạn hiểnhiện của bầu-trời-tâm-thần màu trắng, màu đỏ cam, màu đen.

40 Mặc dù hết sức đađoan, Đức Đạt-lai Lạt-ma vẫn ngồi thiền, học hỏi, tu tập liên tục mỗi ngày,luôn luôn nhắc đến các vị thầy của mình và truyền lại cho chúng ta những kinhnghiệm đã học hỏi được. Xin chú ý sự khiêm nhường của một vị « Phật sống ».Trong nhiều sách khác Ngài cho biết vẫn ngồi thiền và ôn tập các giai đoạn củaquá trình cái chết từ sáu đến tám lần mỗi ngày. Ta thấy rằng điều này chẳng cóhại gì đến sự thư giản, và sức làm việc của Ngài, vì lúc nào Ngài cũng tươicười, ân cần với tất cả mọi người, có khi lại rất dí dỏm và khôi hài.

41 Những hiện tượng nàyđã được nhiều bệnh viện và bác sĩ Tây phương chứng nhận khi có các nhà sư Tâytạng chết tại Mỹ châu và Âu châu. Chỉ có các nhà sư Tây tạng mới xác định đượclúc nào người chết đã « chết hẳn ».

42 Có những trường hợpkhi các vị cao tăng ngồi thiền, hoạt động sinh lý của cơ thể chậm hẳn lại, timđập rất nhẹ và rất chậm, nhịp thở cũng rất chậm và thật nhẹ, mạch gần như khôngnhận ra. Các vị ấy bất động trong tư thế ngồi thiền giống như tình trạng đãviên tịch, nhưng râu tóc vẫn thấy mọc. Người chung quanh chờ mãi không thấyđộng tịnh, hư rữa, liền đem sơn (loại sơn mài) bôi lên khắp người thành một photượng. Ngày nay người ta có thể nhìn thấy hoặc chụp hình bộ xương bên trongbằng quang tuyến X. Những di tích này vẫn còn ở Việt Nam và vài nước Á châukhác.

43 Dịch nghĩa là kinh «Kết hợp thần bí », bộ kinh này được dịch sang tiếng Tây tạng vào thế kỷ XI.

44 Có thể đây là nhữnghình ảnh cụ thể hóa dùng để mô tả những diễn biến siêu hình vượt ra khỏi sứchiểu biết thông thường của ta, trong mục đích sử dụng cho việc thiền định.

45 Tức là không còn táisinh nữa

46 Phát huy hơi nóng làcách tu tập của một số nhà sư Tây tạng. Vào mùa đông dưới không độ, họ trầntruồng ngồi thiền định xếp hàng trên tuyết, những người phục vụ nhúng một cáimền (chăn) hay khăn trong nước lạnh buốt và đắp lên lưng họ, khi chăn khô vìhơi nóng thì lại đắp lên tấm khác. Số chăn sấy khô trong một đêm xác nhận cấpbậc thiền định của mỗi người. Hiện tượng này gần đây đã được các bác sĩ ngườiMỹ nghiên cứu bằng cách nhờ các nhà sư Tây tạng trên đất Mỹ và tại Dharamsala(Ấn độ) thực hiện. Họ đeo cho các nhà sư máy móc để đo nhịp tim, áp huyết vànhiệt độ nhiều nơi trên thân thể, mặt nạ đo nhiệt độ và tổng lượng dưỡng khíhít vào, khí oxid carbon thở ra v.v....Bà Alexandra David-Neel cũng có mô tảcách luyện tập này trong các sách của bà. Chính bà cũng tập luyện thành côngphép này và cho biết hơi nóng phát sinh giúp những nhà sư ngồi thiền định trongcác hang núi ở Hy Mã Lạp Sơn có thể nhịn đói và chịu lạnh qua hết mùa đông. Bàcòn cho biết những người tu cao, không cần ngồi trong tư thế thiền định, sứcnóng vẫn phát sinh tự nhiên, chỉ cần mặc một áo mỏng giữa mùa đông.

47 Để đưa ra một thí dụ:Sau đây là vài lời khuyên của một nhà sư người Mỹ Lama Surya Das, từng tu họcgần ba mươi năm ở Népal, Tây tạng, Ấn độ, và hiện giảng dạy tại Mỹ (vùng Boston):

Khi ngồi, ta hãyngồi như một vị Phật. Hãy xem ta là một vị Phật.
Khi đứng, ta hãyđứng lên như một vị Phật. Hãy xem ta là một vị Phật.
Khi đi, ta hãybước lên như một vị Phật. Hãy xem ta là một vị Phật
Khi suy nghĩ, tahãy suy nghĩ như một vị Phật. Hãy để cho Phật suy nghĩ xuyên qua tâm ta.
Khi thở, ta hãyhít thở như một vị Phật.
Hãy để cho Phậthít thở bằng thân xác ta.
Hãy để cho Phậtsống bằng thân xác ta. Hãy xem ta là một vị Phật.
Hãy tận hưởng sựtoàn thiện tự nhiên. Ta sẽ nhận thấy rằng ta giống rất nhiều với một vị Phật,nhiều hơn là ta đã tưởng.
(Lama Surya Das:Éveillez le Bouddha qui est en vous, nhà xuất bản Robert Laffont, 1998, 347trang, đoạn trích dẫn trang 129, sách dịch từ nguyên bản tiếng Anh)

48 Thần linh biểu tượngcủa Trí tuệ.

49 Khi « lấy » tinhtrùng của một người đàn ông và trứng của một người đàn bà trong những điều kiệnnào đó, chính « người cho » và « người thực hiện » việc thụ thai trong ốngnghiệm đã mang những chủ đích rõ rệt và những kích thích tiềm ẩn. Kể cả trongngành chăn nuôi kỷ nghệ ngày nay (heo, bò, ngựa...), cũng cần phải kích thíchcon vật đực để lấy tinh trùng và chờ lúc thích hợp để đưa tinh trùng vào tửcung của con vật cái. Chính những chủ đích, xu hướng và những kích thích tiềmẩn như vừa kể đã tạo ra những điều kiện cần thiết hay môi trường (duyên) « thuhút » hoặc « ruồng bỏ » (tác động của nghiệp) liên hệ đến sự kết hợp trứng vàtinh trùng (quả của nghiệp); sự kiện thụ thai chỉ là cơ sở chuyên chở cho sựtái sinh.

50 Tức là thụ thai trongống nghiệm

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2023(Xem: 1277)
Rồi tôi đi sâu vào vườn trầm, đi mãi vào ...rừng trầm để mong tìm những cây trầm đại thụ, và tôi đã gặp bao cao Tăng tu hành tại đây, không chỉ các sư tại Âu Châu mà còn từ Hoa Kỳ, Úc, Canada ...nữa cơ. Các vị đã trao cho tôi bao trầm hương qua lời giảng của quí Sư dựa theo lời dạy của Đức Phật. Những thỏi trầm quí mang tên: Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Bát Nhã, Phổ Môn, Chú Đại Bi, Thập Chú, Thần Chú..v.v..và.v.v.Ôi, nhiều lắm, rồi với thời gian, nếu thành tâm trân quí và nắm giữ những thỏi trầm, thì hương trầm của nó cũng ít nhiều tỏa hương thơm ngát đánh bạt những sú uế mà bụi đời đã phủ lên người chúng ta.
15/03/2023(Xem: 5241)
Từ khi con người bắt đầu quy tụ sống thành nhóm, thành đoàn, và sau này phát triển đông đảo thành cộng đồng, xã hội, quốc gia, người ta đã biết tổ chức phân quyền, đưa ra những nguyên tắc luật lệ chung để mọi người dân sống trong cộng đồng quốc gia phải tuân theo. Những ai phạm tội phá rối trị an sẽ bị đem ra xét xử và trừng phạt theo nội quy luật lệ của quốc gia nơi họ cư ngụ. Có như thế thì mọi sinh hoạt trong cộng đồng xã hội mới giữ được trật tự, đời sống cá nhân mới được bảo đảm an toàn.
23/09/2022(Xem: 2786)
Giáo lý Bốn thánh đế là giáo pháp quan trọng nhất của những người học và tu tập theo lời dạy của Đức Phật. Cho dù chúng ta thuộc truyền thống Nguyên Thuỷ hay truyền thống Đại Thừa cũng đều tu học từ nền tảng giáo pháp này. Trong Bốn thánh đế thì đạo thánh đế gồm 37 pháp và thường được gọi là 37 phẩm trợ đạo. Trong đó thì Bát chánh đạo là căn bản nhất vì “Bát chánh đạo gồm có hữu lậu và vô lậu” (Trong Tạp A-hàm, Kinh Quảng Thuyết Bát Thánh Đạo, số 785 và Trong kinh Trung Bộ III, Đại Kinh bốn mươi, do Hòa thượng Minh Châu dịch).
17/11/2021(Xem: 25429)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
13/11/2021(Xem: 13466)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
03/09/2021(Xem: 7307)
Có những người làm gì cũng hay, viết gì cũng hay. Tôi luôn luôn kinh ngạc về những người như vậy. Họ như dường lúc nào cũng chỉ ra một thế giới rất mới, mà người đời thường như tôi có ngó hoài cũng không dễ thấy ra. Đỗ Hồng Ngọc là một người như thế.
08/10/2020(Xem: 9038)
1- Hãy khoan hồng tha thứ, biết thiện thì làm, tới đâu thì tới. 2- Sống trong cuộc đời, muốn được thong thả rảnh rang thì đừng dính đến quyền lợi. 3- Làm việc hễ thuận duyên thì làm, không thuận thì phải khéo léo nhẫn nhịn để vượt qua. 4- Ăn chay, thương người, thương vật, tụng kinh. 5- Việc ác chớ để phạm, điều lành phải nên làm. 6- Thương người cùng thương vật, niệm Phật và tham thiền. 7- Chánh niệm đứng đầu là 3 niệm : Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. 8- "Hằng ngày ăn thịt chúng sanh mà mong giải thoát, điều đó không bao giờ có điều đó được". 9- Mót thời gian để tu, đừng bỏ qua, gặp việc thì làm; rảnh việc thì nhiếp tâm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. 10- Thông minh hiểu biết nhiều, coi chừng không bằng ông già bà lão ăn chay niệm Phật.
01/03/2020(Xem: 13722)
Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được Phật cho đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.
28/11/2019(Xem: 8151)
Ấn độ là một trong những quốc gia nổi tiếng trên thế giới vì đất rộng, người đông, có dãi Hy mã lạp sơn cao nhất thế giới, có một nền văn minh khá cao và lâu đời, con số 0, số Pi (3,1416...) do người Ấn sử dụng đầu tiên trong toán học, Kinh Vệ Đà đã được người Ấn sáng tạo từ 1800 đến 500 năm trước công nguyên, Ấn Độ là quê hương của đức Phật, hay nói khác hơn đó là nơi đạo Phật phát sinh, ngày nay đã lan tràn khắp thế giới vì sự hành trì và triết thuyết của đạo Phật thích ứng với thời đại. Do đó việcTime New Roman tìm hiểu về Ấn Độ là một điều cần thiết.
17/04/2019(Xem: 5820)
Những pháp thoại của Lama Yeshe là độc nhất vô nhị. Không ai thuyết giảng được như đức Lama. Tự nhiên lưu xuất trong tâm, trực tiếp ngay bây giờ; mỗi lời nói của ngài là một cẩm nang hướng dẫn để thực tập. Tiếng anh của đức Lama rất tốt. Khó có người sử dụng nhuần nhuyễn như ngài. Với tính sáng tạo cao, đức Lama đã biểu hiện chính mình không chỉ qua lời nói, mà còn thể hiện tự thân và trên khuôn mặt. Làm sao để chuyển tải hết sự truyền trao huyền diệu này trên trang giấy? Như đã đề cập ở chỗ khác, chúng tôi trình bày với yêu cầu này cách tốt nhất có thể.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]