Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vô Bố Úy

03/02/202512:27(Xem: 139)
Vô Bố Úy
buddha-407VÔ BỐ ÚY
(Nhậm vận thịnh suy vô bố úy – Vạn Hạnh thiền sư)

 

Nói một cách nôm na dễ hiểu là không sợ hãi, nhìn thời cuộc phát triển hay suy tàn mà lòng không sợ sệt. Vô bố úy là hạnh, là pháp tu, pháp thí ngôn ngữ văn tự nghe thì dễ nhưng thực hành chẳng hề dễ tí nào. Thế gian dễ được mấy ai? Các ngài viết được, nói được và làm được. Phật môn xưa nay đời nào cũng có. Phật giáo cũng như thời vận quốc gia lúc suy lúc thịnh, lúc hưng lúc mạt. Các ngài chẳng những tự thân vô úy mà còn bố thí vô úy, dạy người vô úy, truyền cái tinh thần vô úy đến mọi người, mọi loài. Còn chúng ta học được, cảm nhận được, thọ nhận được bao nhiêu là tùy thuộc vào phước đức, căn cơ và bản lãnh của mỗi cá nhân.

Tại sao chúng ta sợ hãi? có vô vàn nỗi sợ: Sợ bệnh, sợ già, sợ xấu, sợ mất mát, sợ hao tổn, sợ thiệt thòi, sợ chia lìa, sợ bêu xấu, sợ nhục, sợ bị phỉ báng, sợ nghèo… và trên hết là sợ chết. Tất cả chung quy cũng chỉ vì cái “tôi” vô hình vô tướng. Chúng ta yêu cái “tôi”, cái “ngã”, chấp vào cái “ngã” cho rằng thân này là thật. Điều này đã huân tập từ vô lượng kiếp rồi đâu thể nào dễ buông bỏ. Đọc kinh sách, hiểu văn tự, thông chữ nghĩa là vậy nhưng đó chỉ là lý thuyết, khi đụng việc thì mới biết thật giả thế nào.

Cái thân này không thật, ngũ uẩn này do duyên hợp chứ không phải thật, nếu nó thật thì: “Người đời có thể xin cho các uẩn như thế này hoặc như thế kia. Vì nó không thật nên người đời không thể xin cho nó không như thế này hoặc không như thế kia” (Kinh Suy Niệm về Nghiệp). Buông được cái “tôi”, không còn chấp ngã là một việc vô cùng khó nhưng một mai làm được thì chẳng có gì có thể khiến chúng ta sợ hãi nữa.

Tại sao các ngài vô úy? Bộ các ngài không có thần kinh, không có trái tim, không có cảm giác sao? Bộ các ngài là thân kim cang sao? Không phải vậy! Các ngài cũng thân thể vật chất như chúng ta. Các ngài cũng vay mượn cơm nước, không khí, cũng đầy đủ những yếu tố vật chất và tinh thần như chúng ta. Thế tại sao các ngài vô úy? Vì các ngài đã vượt qua mặt lý thuyết, đã biến chữ nghĩa văn tự thành sự thật. Các ngài ngộ được khổ, không, vô thường, vô ngã, không còn chấp ngã. Có thể các ngài chưa chứng đắc hoặc giả đã chứng đắc nhưng không tùy tiện hiển lộ để mê hoặc lòng người. Các ngài ngồi xem thịnh suy của thời cuộc thế sự mà lòng không lay động, không sợ hãi. Đừng nói là thế sự thịnh suy, ngay cả Phật pháp cũng thịnh suy là lẽ tự nhiên, là quy luật của vô thường. Đọc kinh sách ta thấy ngài Mục Kiền Liên là bậc thánh tăng chứng đắc có thần thông, ngài biết trước sẽ bị bọn ngoại đạo giết chết và băm vằm thân xác nhưng ngài vẫn thản nhiên như chẳng có việc gì. Tổ sư Từ khi bị vua nước Kế Tân hỏi mượn cái đầu, ngài đưa cổ cho vua cắt mà cả thân tâm đều không một chút sợ hãi, hối hận hay giận dữ, thản nhiên cứ như cho mượn viên sỏi hạt bụi. Có thể chúng ta lý luận là ngài trả nghiệp hoặc là  bậc thánh nhân du hí nhân gian. Không bàn ở khía cạnh này, ở đây chỉ nói về tinh thần vô úy mà thôi! Ngài đã ngộ vô thường, buông bỏ cái ngã , đã hoàn toàn “viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh niết bàn” (Tâm Kinh). Các ngài đã thật sự “Vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố” (Tâm Kinh). Tổ sư Từ cho vua nước Kế Tân mượn đầu nào có khác gì tiền thân của đức Phật xả bỏ thân mạng để cứu bầy cọp đói!

Lão Triệu cũng thế, ngài vốn là ông tăng trẻ xuất chúng, viết Triệu Luận làm chấn động Phật môn Trung Nguyên, ảnh hưởng sâu rộng đến giới tu học duy thức Trung Nguyên và cả những nước lân cận như: Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam… Năm 31 tuổi  bị nạn nhà Hậu Tần, trước khi thọ hình chém đầu, ngài ung dung thanh thản đọc kệ:

Tứ đại vốn không chủ

Ngũ ấm gốc cũng không
Đưa đầu nhận kiếm bén
Như chém làn gió xuân

Thật phi thường, xem việc chém đầu như làn gió xuân, chúng ta không bàn về nguyên nhân hay những vấn đề liên can đến việc thọ nạn, ở đây chúng ta chỉ nói đến tinh thần vô úy, cảm nhận và khâm phục sự vô úy của các ngài.

Ngài Huyền Trang một mình một bóng vượt vạn lý sang Tây Trúc thỉnh kinh. Ngài đối mặt với sự cô độc, dấn thân giữa rừng thiêng nước độc, sa mạc cát cháy, tuyết lãnh buốt sương, cường sơn thảo khấu, phiến quân bạo chúa, thú dữ độc trùng… mà không hề sợ hãi, không thối thất tâm bồ đề, không nản chí ngã lòng. Thật không biết dùng từ ngữ gì để mà miêu tả cho hết nỗi gian nan nguy hiểm trên đường đi. Ngài đã đi và về mất 19 năm ròng.

HUYỀN DIỆU CƠ DUYÊN THIỀN VIỆN DU TĂNG XUẤT VẠN LÝ TÂY THIÊN TẦM SƯ THÍNH PHÁP SƯU KHẢO VĂN BẢN CHÁNH

TRANG NGHIÊM THÙ THẮNG PHẬT MÔN ĐẠI SƯ LÂM TỨ PHƯƠNG ĐÔNG ĐỘ GIÁO CHÚNG DỊCH KINH TRUYỀN BÁ THÁNH ĐIỂN NGÔN

 

Thế sử và Phật sử hiện đại cũng cho thấy một vị hòa thượng vô bố úy như thế nào. Vì pháp nạn mà hòa thượng Thích Quảng Đức phát nguyện thiêu thân, thượng cúng dường mười phương chư Phật, hạ hy vọng soi rọi tâm trí người mê, thức tỉnh kẻ thủ ác. Ngài ngồi giữa biển lửa mà nét mặt bình thản, tay thủ ấn, toàn thân bất động, không một cử chỉ hay một âm thanh nào tỏ ra đau đớn hay sợ hãi. Sự vô úy của ngài làm lay động toàn thể lương tâm nhân loại, cả thế giới sững sờ khâm phục.

Các ngài Huyền Quang, Quảng Độ, Tuệ Sỹ cũng là những tấm gương vô úy trong thời đại hôm nay. Các ngài vì đạo pháp, vì dân tộc, vì tiền đồ non nước mà chịu tù đày, cấm bế, khủng bố, mạ lỵ… mà không chút sờn lòng, không hề lung lay ý chí, không thối thất tâm bồ đề. Thậm chí ngài Tuệ Sỹ mang bản án tử hình ấy vậy mà vẫn tự tại trong chốn lao tù. Ngài ngồi gõ ngón tay lên tường rêu mà nhìn thế sự, tù đày và hình án chẳng làm bận lòng, ngày ngày vẫn:

Phụng thử ngục tù phạn
Cúng dường tối thắng tôn

Thế gian trường huyết hận
Bỉnh bát lệ vô ngôn

Thân mình chịu hình án cũng chẳng đáng là bao so với sự thống khổ của thế gian ngập chìm trong huyết hận. Án tử cũng chẳng nghĩa lý gì so với cái khổ trong vô minh trầm mịch của chúng sanh. Các ngài đã không còn xem cái thân là thật, đã thật sự buông được cái ngã, phá được sự chấp ngã nên mới vô úy như thế!

Vô úy trong Phật môn là thế, ngoài đời cũng có nhiều tấm gương vô úy, tuy họ không biết hay chưa biết đến Phật pháp nhưng họ cũng thể hiện tinh thần vô úy, truyền sự vô úy đến với mọi người. Chúng ta thấy ban nhạc trên con tàu Titanic vô cùng can đảm và vô úy. Họ như những tượng đài bất diệt, cứ chơi nhạc như không có gì xảy ra, mặc cho con tàu đang chìm nhanh vào làn nước biển. Họ muốn duy trì và giữ vững tinh thần cho những nạn nhân còn lại trên boong tàu. Họ chơi nhạc như những buổi biểu diễn bình thường để vực dây tinh thần những con người đang hoảng loạn cùng cực trước cái chết. Họ đang thực hành vô úy, bố thí vô úy.

Ba trăm lính cứu hỏa của thành phố Nữu Ước lao vào tòa nhà World Trade Center. Họ hoàn toàn biết rằng tòa nhà đang cháy và đang sụp đổ. Họ biết cái chết treo lơ lửng trên đầu nhưng họ vẫn vào để cứu người. Những con người vô úy, đang thí vô úy, thực hành vô úy. Những người lính cứu hỏa ấy cũng bằng xương thịt như ta, cũng biết đau đớn và sợ hãi như mọi người, cũng có cha mẹ, vợ con, gia đình, sự nghiệp như mọi người… Ấy vậy mà họ lao vào cái chết không chút sợ hãi, trong cái khoảnh khắc nghiệt ngã này họ đã buông được cái ngã, sống chết vì tha nhân. Họ chưa hề biết đến Phật pháp nhưng đã thực hành vô úy, bố thí vô úy như thể những bồ tát hóa thân.

 

Nước Mỹ vốn được mệnh danh là đất mơ (dream land), đất tự do (freedom land) xưa nay bao dung cưu mang hàng chục triệu nạn nhân của áp bức bất công, đàn áp chính trị, kỳ thị tôn giáo hoặc giới tính, nạn nhân đói nghèo, chiến tranh, thiên tai… Ngày hôm nay đang biến động mạnh, một chính phủ cực hữu da trắng được lãnh đạo bởi những kẻ cục súc, độc ác, ích kỷ, tham lam, nhỏ nhen. Một chính phủ đứng đầu bởi một con người gian trá, thô lỗ, hung hãn cả một đời chưa từng nói được một lời thật, một lời tử tế, chưa làm được một việc gì thiện lành. Với y chỉ có tiền, tiền và tiền, tiền là tất cả. Y và chính phủ của y đang gieo rắc sự khủng bố đến với những con người thấp cổ bé họng. Y đang chà đạp lên công lý và luật pháp. Y hiện thân chẳng khác những tay độc tài tàn bạo của những xứ sở lạc hậu chậm tiến. Hầu hết những người gìau có, quyền thế đều khom lưng quỳ gối thần phục y. Ấy vậy àm có một vị nữ mục sư đã dám nói lời thật trong ngày đầu y đi lễ nhà thờ. Bà Wariann Edgar Budde đã phát biểu: “Hãy yêu thương hàng xóm của bạn, hãy bảo vệ những người cần được bảo vệ, ngừng nói lời cay nghiệt, ngừng so sánh và ngừng dựa vào dáng vẻ bề ngoài vì nó thoáng qua nó không giúp ích gì cho bạn khi xác thân này tắt thở. Tham lam, giận dữ và ảo tưởng không phải là con đường”.

Kể cũng can đảm lắm thay, dẫu chưa phải là vô úy trước sanh tử nhưng ít ra cũng vô úy trước bạo lực cường quyền, dám lên tiếng trước cái xấu, cái ác. Cả xã hội đang dao động, nhất là những người di dân không giấy tờ, nhưng tầng lớp dưới đáy xã hội bất an trước những sắc lệnh hành pháp cắt giảm trợ cấp. Nhiều tổ chức văn hóa, giáo dục, y tế, nhân quyền, môi trường đang lo lắng vì sự thiển cận hẹp hòi của kẻ ác đang cản trở và phá hoại những thành quả bấy lâu nay.

Có một điều khá quái lạ là người Việt hải ngoại phần lớn là những người di dân, tỵ nạn nhưng lại đi phò kẻ kỳ thị người tỵ nạn, thậm chí họ tôn thờ y như thiên sứ mới ghê. Rất nhiều người hùa theo y bằng cả lời nói và hành động, tham gia bạo loạn, ủng hộ sự kỳ thị, đe dọa khủng bố những người dám nói sự thật, dám lên tiếng vì công lý, nhân quyền. Những người Việt tỵ nạn đi phò kẻ khủng bố gieo rắc sợ hãi và kỳ thị lên người gốc châu Á, nói sao cho hết sự ngu si tàn nhẫn như thế này! Những người Việt ủng hộ sự khủng bố đối với người tỵ nạn mà họ quên rằng trước đây họ cũng là những thuyền nhân, những người tù, những nạn nhân của khủng bố chính trị, đói nghèo từ Việt Nam được chính phủ Jimmy Carter bao dung cho nhập cư. Vô minh và vô cảm đến thế là cùng, thật khó mà làm cho họ hồi tâm chuyển ý nếu không muốn nói là không thể. Bởi vậy mà sách vở có câu: “Giang san dễ đổi bản tánh khó thay”. Để lý giải cho cái sự cuồng của người Việt chỉ có thể nói là “ngưu tầm ngưu mã tầm mã”. Ở đây chỉ là cái sự tầm nhau ở sự ác, sự thô lỗ, sự vô cảm… chứ còn thân phận Việt da vàng mũi tẹt tỵ nạn thì đâu đã trở thành thượng đẳng da trắng được!

Trong cái hoàn cảnh khủng bố như thế, bà Mariann Edgar Budde dám nói thật, nói thẳng như thế cũng có thể xem như thực hành vô úy, úy lạo đến những con người thấp cổ bé họng đang trong cơn sợ sệt. Sự tôn phò của đám đông cuồng loạn khiến không ít người trong chúng ta chán nản, mất niềm tin, lo lắng… Những lúc này cần biết bao những con người vô úy, cần lắm những hành động vô úy, lời nói vô úy!

Ngày xuân đọc xem lại những tấm gương vô úy của các bậc thượng nhân, các anh hùng trượng phu mà thấy lòng ấm áp và dường như có chút gì đó cũng khiến cho lòng mình bớt dao động. Học hạnh vô úy, thực hành vô úy bố thí vô úy không phải chỉ những bậc trượng phu mới làm được. Mọi người chúng ta cũng có thể học chút chút, từ lý thuyết đến thực hành tuy có một khoảng cách rất xa nhưng mỗi ngày một chút, bắt đầu từ việc nhỏ nhặt nhất, căn bản nhất như không sát sanh, không trộm cắp, không nói dối, không nói đâm thọc, không nói lời thô lỗ hung ác. Ngay trong đời thường cũng có thể đứng với những người thấp cổ bé họng, giúp đỡ những người cùng khổ hay phóng sanh một con vật ấy cũng chính là thực hành vô úy, bố thí vô úy.

 

Tiểu Lục Thần Phong

Ất Lăng thành, 2025

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/02/2021(Xem: 6739)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 6472)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4706)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 10068)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 6504)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 8208)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 6237)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
28/01/2021(Xem: 7171)
Chúng ta đã quen với thể loại thơ Thiền sáng tác nhiều thế kỷ trước từ các ngài Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Hương Hải… Hay gần đây như với thơ của các ngài Nhất Hạnh, Mãn Giác, Tuệ Sỹ, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Ni Trưởng Trí Hải… Đó là nói cho chặt chẽ. Nếu nói cho nới rộng hơn, thơ Thiền cũng là Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn… Mỗi thời đại đều có những nét riêng, mỗi tác giả cũng là một thế giới độc đáo. Mặt khác, thơ Thiền mỗi quốc độ cũng khác. Trong khi phần lớn thơ Thiền Nhật Bản cô đọng với thể haiku, thơ Thiền Trung Hoa có nhiều bài hùng mạnh như tiếng sư tử hống, như với Chứng Đạo Ca của ngài Huyền Giác, hay Tín Tâm Minh của ngài Tăng Xán. Không ngộ được tự tâm, sẽ không có văn phong đầy sức mạnh như thế. Nơi đây, chúng ta nêu câu hỏi: Làn gió Thiền Tông đã ảnh hưởng vào thơ Hoa Kỳ ra sao? Và sẽ giới thiệu về bốn nhà thơ.
28/01/2021(Xem: 7427)
Mọi người đều biết câu chuyện Xá Lợi Phất thăm Cấp Cô Độc khi bị bịnh nặng và giảng cho Cấp Cô Độc bài pháp về quán chiếu, khi thiền trong Tứ Niệm Xứ mà chữa bịnh cho Cấp Cô Độc. Quán về Phật pháp tăng, 18 giới gồm 6 căn 6 trần 6 thức, rồi quán về 7 đại: đất nước gió lửa không kiến thức, quán về thời gian không gian và cuối cùng là quán về 5 uẩn. Cấp Cô Độc nghe xong hết bịnh. Cũng câu chuyện như vậy, nhưng nó khác đi chi tiết là lúc về già sắp mất: Xá Lợi Phất khai thị Cấp Cô Độc chú trọng về 5 uẩn, hãy trả 5 uẩn về lại cho 5 uẩn khi duyên hội tụ đã hết. Hãy trả Pháp về lại cho Pháp. Và Cấp Cô Độc chết thành A la hán vì đã ngộ được đạo về cõi trời.
28/01/2021(Xem: 6496)
Chùa Thiếu Lâm Tự mở ra khóa ngồi thiền cho 18 vị tu thành A la Hán. Khoá tu này trong 30 ngày ngồi trong tịnh thất suốt ngày đêm. Vị chủ trì là Hòa thượng trụ trì của Thiếu Lâm Tự. Thời bấy giờ là mùa xuân, cảnh đẹp hoa nở và thời tiết ấm áp. Mọi thiền sinh miệt mài tập trung thiền định đạt được 30 ngày miên mật thì bỗng xảy ra tiếng nói vọng vào từ ngoài cửa. Giọng nói đầy êm dịu thanh thoát và trong trẻo của một cô gái. Mỗi tiếng phát âm đi sâu vào tim người nghe một cảm giác êm dịu nhẹ nhàng như vuốt ve trái tim của con người.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]