Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vô Bố Úy

03/02/202512:27(Xem: 142)
Vô Bố Úy
buddha-407VÔ BỐ ÚY
(Nhậm vận thịnh suy vô bố úy – Vạn Hạnh thiền sư)

 

Nói một cách nôm na dễ hiểu là không sợ hãi, nhìn thời cuộc phát triển hay suy tàn mà lòng không sợ sệt. Vô bố úy là hạnh, là pháp tu, pháp thí ngôn ngữ văn tự nghe thì dễ nhưng thực hành chẳng hề dễ tí nào. Thế gian dễ được mấy ai? Các ngài viết được, nói được và làm được. Phật môn xưa nay đời nào cũng có. Phật giáo cũng như thời vận quốc gia lúc suy lúc thịnh, lúc hưng lúc mạt. Các ngài chẳng những tự thân vô úy mà còn bố thí vô úy, dạy người vô úy, truyền cái tinh thần vô úy đến mọi người, mọi loài. Còn chúng ta học được, cảm nhận được, thọ nhận được bao nhiêu là tùy thuộc vào phước đức, căn cơ và bản lãnh của mỗi cá nhân.

Tại sao chúng ta sợ hãi? có vô vàn nỗi sợ: Sợ bệnh, sợ già, sợ xấu, sợ mất mát, sợ hao tổn, sợ thiệt thòi, sợ chia lìa, sợ bêu xấu, sợ nhục, sợ bị phỉ báng, sợ nghèo… và trên hết là sợ chết. Tất cả chung quy cũng chỉ vì cái “tôi” vô hình vô tướng. Chúng ta yêu cái “tôi”, cái “ngã”, chấp vào cái “ngã” cho rằng thân này là thật. Điều này đã huân tập từ vô lượng kiếp rồi đâu thể nào dễ buông bỏ. Đọc kinh sách, hiểu văn tự, thông chữ nghĩa là vậy nhưng đó chỉ là lý thuyết, khi đụng việc thì mới biết thật giả thế nào.

Cái thân này không thật, ngũ uẩn này do duyên hợp chứ không phải thật, nếu nó thật thì: “Người đời có thể xin cho các uẩn như thế này hoặc như thế kia. Vì nó không thật nên người đời không thể xin cho nó không như thế này hoặc không như thế kia” (Kinh Suy Niệm về Nghiệp). Buông được cái “tôi”, không còn chấp ngã là một việc vô cùng khó nhưng một mai làm được thì chẳng có gì có thể khiến chúng ta sợ hãi nữa.

Tại sao các ngài vô úy? Bộ các ngài không có thần kinh, không có trái tim, không có cảm giác sao? Bộ các ngài là thân kim cang sao? Không phải vậy! Các ngài cũng thân thể vật chất như chúng ta. Các ngài cũng vay mượn cơm nước, không khí, cũng đầy đủ những yếu tố vật chất và tinh thần như chúng ta. Thế tại sao các ngài vô úy? Vì các ngài đã vượt qua mặt lý thuyết, đã biến chữ nghĩa văn tự thành sự thật. Các ngài ngộ được khổ, không, vô thường, vô ngã, không còn chấp ngã. Có thể các ngài chưa chứng đắc hoặc giả đã chứng đắc nhưng không tùy tiện hiển lộ để mê hoặc lòng người. Các ngài ngồi xem thịnh suy của thời cuộc thế sự mà lòng không lay động, không sợ hãi. Đừng nói là thế sự thịnh suy, ngay cả Phật pháp cũng thịnh suy là lẽ tự nhiên, là quy luật của vô thường. Đọc kinh sách ta thấy ngài Mục Kiền Liên là bậc thánh tăng chứng đắc có thần thông, ngài biết trước sẽ bị bọn ngoại đạo giết chết và băm vằm thân xác nhưng ngài vẫn thản nhiên như chẳng có việc gì. Tổ sư Từ khi bị vua nước Kế Tân hỏi mượn cái đầu, ngài đưa cổ cho vua cắt mà cả thân tâm đều không một chút sợ hãi, hối hận hay giận dữ, thản nhiên cứ như cho mượn viên sỏi hạt bụi. Có thể chúng ta lý luận là ngài trả nghiệp hoặc là  bậc thánh nhân du hí nhân gian. Không bàn ở khía cạnh này, ở đây chỉ nói về tinh thần vô úy mà thôi! Ngài đã ngộ vô thường, buông bỏ cái ngã , đã hoàn toàn “viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh niết bàn” (Tâm Kinh). Các ngài đã thật sự “Vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố” (Tâm Kinh). Tổ sư Từ cho vua nước Kế Tân mượn đầu nào có khác gì tiền thân của đức Phật xả bỏ thân mạng để cứu bầy cọp đói!

Lão Triệu cũng thế, ngài vốn là ông tăng trẻ xuất chúng, viết Triệu Luận làm chấn động Phật môn Trung Nguyên, ảnh hưởng sâu rộng đến giới tu học duy thức Trung Nguyên và cả những nước lân cận như: Nhật Bản, Đại Hàn, Việt Nam… Năm 31 tuổi  bị nạn nhà Hậu Tần, trước khi thọ hình chém đầu, ngài ung dung thanh thản đọc kệ:

Tứ đại vốn không chủ

Ngũ ấm gốc cũng không
Đưa đầu nhận kiếm bén
Như chém làn gió xuân

Thật phi thường, xem việc chém đầu như làn gió xuân, chúng ta không bàn về nguyên nhân hay những vấn đề liên can đến việc thọ nạn, ở đây chúng ta chỉ nói đến tinh thần vô úy, cảm nhận và khâm phục sự vô úy của các ngài.

Ngài Huyền Trang một mình một bóng vượt vạn lý sang Tây Trúc thỉnh kinh. Ngài đối mặt với sự cô độc, dấn thân giữa rừng thiêng nước độc, sa mạc cát cháy, tuyết lãnh buốt sương, cường sơn thảo khấu, phiến quân bạo chúa, thú dữ độc trùng… mà không hề sợ hãi, không thối thất tâm bồ đề, không nản chí ngã lòng. Thật không biết dùng từ ngữ gì để mà miêu tả cho hết nỗi gian nan nguy hiểm trên đường đi. Ngài đã đi và về mất 19 năm ròng.

HUYỀN DIỆU CƠ DUYÊN THIỀN VIỆN DU TĂNG XUẤT VẠN LÝ TÂY THIÊN TẦM SƯ THÍNH PHÁP SƯU KHẢO VĂN BẢN CHÁNH

TRANG NGHIÊM THÙ THẮNG PHẬT MÔN ĐẠI SƯ LÂM TỨ PHƯƠNG ĐÔNG ĐỘ GIÁO CHÚNG DỊCH KINH TRUYỀN BÁ THÁNH ĐIỂN NGÔN

 

Thế sử và Phật sử hiện đại cũng cho thấy một vị hòa thượng vô bố úy như thế nào. Vì pháp nạn mà hòa thượng Thích Quảng Đức phát nguyện thiêu thân, thượng cúng dường mười phương chư Phật, hạ hy vọng soi rọi tâm trí người mê, thức tỉnh kẻ thủ ác. Ngài ngồi giữa biển lửa mà nét mặt bình thản, tay thủ ấn, toàn thân bất động, không một cử chỉ hay một âm thanh nào tỏ ra đau đớn hay sợ hãi. Sự vô úy của ngài làm lay động toàn thể lương tâm nhân loại, cả thế giới sững sờ khâm phục.

Các ngài Huyền Quang, Quảng Độ, Tuệ Sỹ cũng là những tấm gương vô úy trong thời đại hôm nay. Các ngài vì đạo pháp, vì dân tộc, vì tiền đồ non nước mà chịu tù đày, cấm bế, khủng bố, mạ lỵ… mà không chút sờn lòng, không hề lung lay ý chí, không thối thất tâm bồ đề. Thậm chí ngài Tuệ Sỹ mang bản án tử hình ấy vậy mà vẫn tự tại trong chốn lao tù. Ngài ngồi gõ ngón tay lên tường rêu mà nhìn thế sự, tù đày và hình án chẳng làm bận lòng, ngày ngày vẫn:

Phụng thử ngục tù phạn
Cúng dường tối thắng tôn

Thế gian trường huyết hận
Bỉnh bát lệ vô ngôn

Thân mình chịu hình án cũng chẳng đáng là bao so với sự thống khổ của thế gian ngập chìm trong huyết hận. Án tử cũng chẳng nghĩa lý gì so với cái khổ trong vô minh trầm mịch của chúng sanh. Các ngài đã không còn xem cái thân là thật, đã thật sự buông được cái ngã, phá được sự chấp ngã nên mới vô úy như thế!

Vô úy trong Phật môn là thế, ngoài đời cũng có nhiều tấm gương vô úy, tuy họ không biết hay chưa biết đến Phật pháp nhưng họ cũng thể hiện tinh thần vô úy, truyền sự vô úy đến với mọi người. Chúng ta thấy ban nhạc trên con tàu Titanic vô cùng can đảm và vô úy. Họ như những tượng đài bất diệt, cứ chơi nhạc như không có gì xảy ra, mặc cho con tàu đang chìm nhanh vào làn nước biển. Họ muốn duy trì và giữ vững tinh thần cho những nạn nhân còn lại trên boong tàu. Họ chơi nhạc như những buổi biểu diễn bình thường để vực dây tinh thần những con người đang hoảng loạn cùng cực trước cái chết. Họ đang thực hành vô úy, bố thí vô úy.

Ba trăm lính cứu hỏa của thành phố Nữu Ước lao vào tòa nhà World Trade Center. Họ hoàn toàn biết rằng tòa nhà đang cháy và đang sụp đổ. Họ biết cái chết treo lơ lửng trên đầu nhưng họ vẫn vào để cứu người. Những con người vô úy, đang thí vô úy, thực hành vô úy. Những người lính cứu hỏa ấy cũng bằng xương thịt như ta, cũng biết đau đớn và sợ hãi như mọi người, cũng có cha mẹ, vợ con, gia đình, sự nghiệp như mọi người… Ấy vậy mà họ lao vào cái chết không chút sợ hãi, trong cái khoảnh khắc nghiệt ngã này họ đã buông được cái ngã, sống chết vì tha nhân. Họ chưa hề biết đến Phật pháp nhưng đã thực hành vô úy, bố thí vô úy như thể những bồ tát hóa thân.

 

Nước Mỹ vốn được mệnh danh là đất mơ (dream land), đất tự do (freedom land) xưa nay bao dung cưu mang hàng chục triệu nạn nhân của áp bức bất công, đàn áp chính trị, kỳ thị tôn giáo hoặc giới tính, nạn nhân đói nghèo, chiến tranh, thiên tai… Ngày hôm nay đang biến động mạnh, một chính phủ cực hữu da trắng được lãnh đạo bởi những kẻ cục súc, độc ác, ích kỷ, tham lam, nhỏ nhen. Một chính phủ đứng đầu bởi một con người gian trá, thô lỗ, hung hãn cả một đời chưa từng nói được một lời thật, một lời tử tế, chưa làm được một việc gì thiện lành. Với y chỉ có tiền, tiền và tiền, tiền là tất cả. Y và chính phủ của y đang gieo rắc sự khủng bố đến với những con người thấp cổ bé họng. Y đang chà đạp lên công lý và luật pháp. Y hiện thân chẳng khác những tay độc tài tàn bạo của những xứ sở lạc hậu chậm tiến. Hầu hết những người gìau có, quyền thế đều khom lưng quỳ gối thần phục y. Ấy vậy àm có một vị nữ mục sư đã dám nói lời thật trong ngày đầu y đi lễ nhà thờ. Bà Wariann Edgar Budde đã phát biểu: “Hãy yêu thương hàng xóm của bạn, hãy bảo vệ những người cần được bảo vệ, ngừng nói lời cay nghiệt, ngừng so sánh và ngừng dựa vào dáng vẻ bề ngoài vì nó thoáng qua nó không giúp ích gì cho bạn khi xác thân này tắt thở. Tham lam, giận dữ và ảo tưởng không phải là con đường”.

Kể cũng can đảm lắm thay, dẫu chưa phải là vô úy trước sanh tử nhưng ít ra cũng vô úy trước bạo lực cường quyền, dám lên tiếng trước cái xấu, cái ác. Cả xã hội đang dao động, nhất là những người di dân không giấy tờ, nhưng tầng lớp dưới đáy xã hội bất an trước những sắc lệnh hành pháp cắt giảm trợ cấp. Nhiều tổ chức văn hóa, giáo dục, y tế, nhân quyền, môi trường đang lo lắng vì sự thiển cận hẹp hòi của kẻ ác đang cản trở và phá hoại những thành quả bấy lâu nay.

Có một điều khá quái lạ là người Việt hải ngoại phần lớn là những người di dân, tỵ nạn nhưng lại đi phò kẻ kỳ thị người tỵ nạn, thậm chí họ tôn thờ y như thiên sứ mới ghê. Rất nhiều người hùa theo y bằng cả lời nói và hành động, tham gia bạo loạn, ủng hộ sự kỳ thị, đe dọa khủng bố những người dám nói sự thật, dám lên tiếng vì công lý, nhân quyền. Những người Việt tỵ nạn đi phò kẻ khủng bố gieo rắc sợ hãi và kỳ thị lên người gốc châu Á, nói sao cho hết sự ngu si tàn nhẫn như thế này! Những người Việt ủng hộ sự khủng bố đối với người tỵ nạn mà họ quên rằng trước đây họ cũng là những thuyền nhân, những người tù, những nạn nhân của khủng bố chính trị, đói nghèo từ Việt Nam được chính phủ Jimmy Carter bao dung cho nhập cư. Vô minh và vô cảm đến thế là cùng, thật khó mà làm cho họ hồi tâm chuyển ý nếu không muốn nói là không thể. Bởi vậy mà sách vở có câu: “Giang san dễ đổi bản tánh khó thay”. Để lý giải cho cái sự cuồng của người Việt chỉ có thể nói là “ngưu tầm ngưu mã tầm mã”. Ở đây chỉ là cái sự tầm nhau ở sự ác, sự thô lỗ, sự vô cảm… chứ còn thân phận Việt da vàng mũi tẹt tỵ nạn thì đâu đã trở thành thượng đẳng da trắng được!

Trong cái hoàn cảnh khủng bố như thế, bà Mariann Edgar Budde dám nói thật, nói thẳng như thế cũng có thể xem như thực hành vô úy, úy lạo đến những con người thấp cổ bé họng đang trong cơn sợ sệt. Sự tôn phò của đám đông cuồng loạn khiến không ít người trong chúng ta chán nản, mất niềm tin, lo lắng… Những lúc này cần biết bao những con người vô úy, cần lắm những hành động vô úy, lời nói vô úy!

Ngày xuân đọc xem lại những tấm gương vô úy của các bậc thượng nhân, các anh hùng trượng phu mà thấy lòng ấm áp và dường như có chút gì đó cũng khiến cho lòng mình bớt dao động. Học hạnh vô úy, thực hành vô úy bố thí vô úy không phải chỉ những bậc trượng phu mới làm được. Mọi người chúng ta cũng có thể học chút chút, từ lý thuyết đến thực hành tuy có một khoảng cách rất xa nhưng mỗi ngày một chút, bắt đầu từ việc nhỏ nhặt nhất, căn bản nhất như không sát sanh, không trộm cắp, không nói dối, không nói đâm thọc, không nói lời thô lỗ hung ác. Ngay trong đời thường cũng có thể đứng với những người thấp cổ bé họng, giúp đỡ những người cùng khổ hay phóng sanh một con vật ấy cũng chính là thực hành vô úy, bố thí vô úy.

 

Tiểu Lục Thần Phong

Ất Lăng thành, 2025

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/02/2021(Xem: 5669)
Ngày càng có thêm nhiều bằng chứng về việc xây dựng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) và các cơ sở dân sự ở các khu vực khác ngoài Ladakh, một khu vực ở bang Jammu và Kashmir của Ấn Độ. Nó kéo dài từ Siachen Glacier trong phạm vi Karakoram đến Himalaya ở phía nam và có người gốc các dân tộc Ấn-Arya và Tây Tạng, chẳng hạn như dọc theo biên giới tranh chấp ở Vương quốc Phật giáo Bhutan và Arunachal Pradesh, một trong hai mươi chín bang của Ấn Độ.
23/02/2021(Xem: 5889)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 11180)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9752)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 7002)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 9395)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5771)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
17/02/2021(Xem: 5699)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 6468)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4977)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]