Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vọng Tuệ Ngàn Hương Xưa…!

06/08/202108:59(Xem: 5585)
Vọng Tuệ Ngàn Hương Xưa…!


TT Thich Nguyen Tang_Giang tren Google Meet-12-2020

Vọng Tuệ
Ngàn Hương Xưa…!

 

Dấu chân xưa du hóa, một mảnh trời bao dung, gởi những lời vàng ngọc hương xưa bay khắp cả cung trời. Từ xứ Ấn, nơi thánh tích niềm tâm linh Tôn Giáo Phật Đà, Bậc Cha Hiền Đấng Như Lai Thích Ca truyền giáo, khai sáng nguồn tâm nuôi dưỡng chủng tánh cho chư vị Thánh giả Tỳ Kheo Tăng, Tỳ Kheo Ni, hay chư vị Thiên thần Long vương, Trời người quy kính, nghe Đấng Như Lai thuyết giảng, từ gốc nhìn sâu lắng, từ pháp tu thực hành, nên Vua Quan, dân chúng ở xứ Ma Kiệt Đà, xứ Kiều Tất La, vang khắp dòng suối chảy Hưng Long Chánh Pháp nơi xứ Ấn.

Có chư vị Thập đại đệ tử lớn, các vị Thánh Tăng tu tập chứng nghiệm, đạt thánh quả A-La- Hán. Tôn Giả A- Nan nối truyền Kinh Tạng nghe thông thuộc ghi nhớ không sót một câu, Tôn Giả Đại Ca Diếp nối truyền Y bát tâm tông Phật trao, làm đệ nhất Tổ sư truyền thừa, vị Luật sư Tôn giả Ưu Ba Ly, và 500 vị A- La-Hán, kết tập Kinh điển Giáo lý mà Đấng Như Lai thuyết trình qua 49 năm hành hóa độ sinh, Tôn Giả A- Nan là vị trùng tuyên Kinh Tạng, Tôn Giả Ưu-Ba-Ly là vị trùng tuyên Luật Tạng, nơi Hàng thất diệp nước Ma Kiệt Đà, nhờ đó mà khẩu dụ giáo thuyết lời Phật dạy trải dài về sau mà ghi chép. 


Chư vị lịch Đại Tổ Sư truyền mạch, giảng giải, luận sớ, chú thích, ra nhiều bộ luận, chư vị Luận sư: Vô Trước, Thế Thân, Long Thọ, Trần Na, Pháp Xứng, Mã Minh,… truyền từ Bắc Ấn, xuống Nam Ấn, vượt thuyền sang các vùng Đông Á, qua đến tận trời Tây.


Hai mươi tám vị Tổ sư truyền mạch Xứ Ấn, truyền qua xứ Đông độ, kế tiếp Mười tám vị Tổ sư, tính từ Tổ Đạt Ma. Khơi dòng mạch nhánh truyền thừa có các dòng chi phái: Quy Ngưỡng, Lâm Tế, Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn…!


Khởi nguồn về mười tông phái xiển Dương Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Mật Tông, Pháp Hoa Tông, Duy Thức Tông, Trung Quán Tông, Luật Tông, Hoa Nghiêm Tông, Câu Xá Tông, Tam Luận Tông, Thành Thật Tông..!  Nhưng không ngoài Tam vô lậu, Bát Chánh, Tứ đế, Nhân Quả, Nghiệp báo, Thập nhị nhân duyên, Ba Bảy trợ đạo, chung quy cũng là một chữ: “Tu Phật” …! 


Thấm nguồn mạch trí, khơi sáng đèn tâm, vận thiền tu tuệ, lấy nguyện bi hương, suối chảy dòng mạch, hạnh sáng khai tông, xiển dương pháp trí, vận dụng bi tâm, uy hùng nối gót, vang danh chư vị do đức hạnh, giới luật nghiêm trì, luận đàm chú dịch, phóng tác thi ca, gương sáng Thiền treo bên thất củ, nối pháp Tào Khê chảy tận biển Đông mà các đời vua, chúa, sắc phong danh hiệu: Quốc Sư, Pháp Sư, Tăng Cang, Tăng Thống, Thần Tăng, Danh Tăng, Cao Tăng, trải qua các triều đại xứ Đông Độ, và lan rộng đến: Việt Nam, Trung Hoa, Triều Tiên, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Tích Lan, Miến Điện, Tây Tạng, Bhutan, mà mạch vàng y pháp cứ vậy mà trao bình y pháp, già lam trú xứ, tùng lâm cổ tự cứ vậy mà nhận ân điển sắc phong, vua trao Độ điệp Giới đao, gối thiền, kinh tuệ như sao sáng, dáng Thượng Sư như trác phong Thiền lưu, vang danh sử gia, ghi vào sử sách, sáng ngọc lưu hương, như tâm: tâm chư Phật, như Chứng: chứng Đại thừa Thiền phái, trong mạch khí Phật thừa, Bồ Tát thừa, Duyên Giác thừa, Thanh Văn thừa, Thiên thừa, Nhân thừa.


Chư Đại Tăng phải thông mạch Tam tạng, Kinh tạng, Luật tạng, Luận tạng, thêm vào đó sức học Văn- Tư- Tu. Hướng đến quán chiếu Giác ngộ và giải thoát Chân như, khởi tâm chánh niệm đến tịch lạc Niết bàn vi diệu. Khiến cho đức hạnh tỏa hương xa. 


Vọng tuệ ngàn hương xưa, giữa đầu Thế kỷ 21 này, thăng trầm, thịnh suy, biến dịch thời cuộc, giữ được tâm sáng Chánh Pháp là phúc, giữ được lối mạch truyền thừa gọi là có gốc rễ từ lâu.


Vọng tuệ ngàn hương xưa, như biết bao vị Tam Tạng Pháp Sư, Tôn túc Trưởng Lão Tỳ Kheo Tăng, Tỳ Kheo Ni, đã dầy công biên soạn, dịch thuật, chú giải, lược sớ, trao truyền Chánh thống lời Kinh Luật Luận, gốc từ dưới đất bám sâu, ngọn lá cây nhành đều vun bồi học tập. Giữ giới như gốc, giữ kinh như lá bối diệp, giữ luận như vô vi diệu lý vận hành Tứ Diệu Đế, ứng hoá Bát Chánh Đạo vào đời. Lấy Thân làm kim chỉ nam nuôi dưỡng, lấy bi trí mà vận mạch song hành.


Kẻ Sĩ Thế Tôi, là người con Phật, xuất gia tu Đạo, đâu dám quên lý tưởng Phật trao, đâu dám quên lời từ Tôn Sư trao giới, đâu dám quên việc giữ gìn căn nhà Chánh pháp qua luận giải sớ văn, đâu dám quên các dòng Thiền Phái mà chư Tổ dầy công tạo dựng, kế tục xuất Trần, nối dòng Lâm Tế, hay bất kể Tôn túc Hạ lạp Cao niên đều phải một lòng quy kính.

         “Hạnh Phúc Thay, Khoác Ca Sa Mầu Nhiệm.

          Giữ Bồ Đề, Giới Pháp Thấm Huyền Kinh.

          Noi Gương Trí, Bậc Môn Phong Dạy Bảo.

          Kế Tục Truyền, Trăng Sáng Pháp Uy Linh….!”


Nhân duyên, hằng đêm Kẻ Sĩ Thế Tôi thường nghe Online trang nhà Quảng Đức, do Thượng Tọa Trú Trì Tu Viện Quảng Đức thượng Nguyên hạ Tạng- Melbourne, Úc Châu. Tại Xứ Úc Châu, nhiều vị Giảng sư hoằng hoá, cống hiến về các pháp môn, từ học đến giảng giải, về pháp tu, pháp học, pháp hành, pháp ứng, pháp dụng, pháp trì. Vì tu học lấy Tam Vô Lậu Học làm sự nghiệp hoằng dương pháp mạch của chư Phật. Trong đó có Thượng Tọa Nguyên Tạng.


Giữa đại dịch COVID này, tất cả mọi duyên đều phải tạm dừng, ngồi yên nắm lấy vận Huệ sự sống, nên chư vị thiện tín muốn hiểu sâu giáo nghĩa, thì cần ngồi nghe tu học, đọc và biên chép, tu là để tự mình dễ thương và liễu tri từ tâm nguyện Ân sư giáo hóa khai triển, chỉ có công nghệ 4.0, mới giúp cho người trí thức, học hỏi về Chánh pháp của chư Phật và Chư Tổ qua nền tảng kinh nghiệm pháp hành mà chư vị Đại sư trao gởi.


 Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng là một trong những vị hoằng pháp có thâm niên, giảng về Tổ Sư Thiền và Hành Trạng Chư Vị Tổ Sư, Kệ và Ý Nghĩa Chuông Trống trong chốn Tùng lâm, Thiền thất. 


ht thich tri thu

Ngoài ra, Thượng Tọa triển khai giáo lý lễ lạy 108 lễ tôn hiệu Chư Phật do Trưởng Lão Trí Thủ soạn thuật hành trì rút từ kinh Tạng. Nghi thức Hành trì trong Thiền môn, giảng Thập Đại Đệ tử Phật, 142 bài giảng về Chư Vị Tổ sư Ấn- Hoa- Việt, Giảng 48 lời đại nguyện Đức Phật A Di Đà…! Và nhiều tùng thư khá quan trọng trong pháp hành tu Phật.


 “Ta có thể biết, Ngọc ẩn bên trong chéo áo, hỏi giàu không..? Đáp rằng: Giàu, nhưng không bằng người nghe pháp, hiểu pháp, vị ấy sẽ chuyển nghiệp còn giàu hơn cả tiền tài phù hư..!”


 Thượng tọa là vị học giả, có tuệ giác sâu sắc, vừa là dịch giả, trước tác áng văn, viết nên trang sử Việt bi hùng, có một số sách đã ấn bản khá nhiều, sứ mệnh độ sinh luôn là mạch trí khai thông. Trích dẫn từ những ấn bản hay.

Phải kể đến dịch phẩm từ các bản tiếng anh hay như:

       
Những ấn bản viết về pháp tu pháp học, khá nhiều câu chuyện mang tính từ học chuyển hoá như: Gương sáng niệm Phật, Bát Cơm Hương Tích, Chén Trà Tào Khê, Ngắm Trăng Lăng Già…! 


Từ những phương diện trên Kẻ Sĩ Thế Tôi rút cho mình bốn chất liệu sau:

1: Tín Tâm Chuyển Tánh:  Nghĩa là ta cần phải có tâm chân chánh uy tín từ học để tự mình tháo gỡ tham, sân, si, phiền não uế trượt nhiều đời, thâu tóm chuyển hóa qua lời dạy mà ta được học từ Tôn sư thuyết pháp.


2: Dụng Hành Công Phu:
 Mỗi ngày đi qua dù ở quốc thổ nào chúng ta cũng dành cho riêng mình một không gian tu học, chính thức nó giúp ích được cho ta dụng hành để làm nền tảng công phu, có vậy mới xứng danh tu học tùy hỷ, như Thượng tọa trao chứng chỉ tu học Online qua các bài giảng, cho chư vị Phật tử đủ duyên.


3: Giữ Bồ Đề Nguyện: 
Các vị thính chúng thiện tín nam nữ, cần phải giữ Bồ Đề tâm, gieo duyên hộ trì Chánh Pháp, chuyên cần niệm Phật công đức, cúng dường hộ trì Chánh pháp cho Tăng già, nơi nào có Tăng hành hóa nơi ấy sẽ có Long Thiên chư Phật ngự tọa, như Pháp Hoa Kinh dạy trong phẩm Hiện Bửu Tháp..! Chúc quý vị học trò của Thượng Toạ luôn giữ gìn Bồ Đề tâm.


4: Lấy Ngọc Kim Cương Trí, Chớ lấy Rác Tâm Phiền Não:
Nghĩa là kim cương là quý báu, pháp hành chính pháp của Như lai như ngọc Kim cương, không một vị nào phá nổi pháp Phật, vì Pháp Phật luôn có các vị Hộ pháp Kim cang giữ gìn. Tăng Sĩ có tu và học, có quán và tịnh, có nghiệm và nếm trải thì vị ấy có Long thần bảo hộ. Nếu không tu mà nói phét thì chẳng có gì chất liệu nếm trải nguồn tâm. “Làm Cư Sĩ Chớ Nhục Tâm Quên Pháp, Đã Học Pháp Nhớ Vận Dụng Công Phu..”


Vậy thì công phu chính là quán tuệ, hành sử là trí đi ra, rác trong nhà cần quét sạch, chớ mang vào nữa thêm phiền ngu sĩ.


Nhân duyên ấy, Kẻ Sĩ Thế Tôi đã được tâm nguyện học hỏi, không những các học trò mà Thượng Tọa giáo huấn hướng dẫn tại xứ Úc Châu, mà còn vang đến: Mỹ Quốc, Pháp, Thụy Sĩ, Anh, Nhật, Đức, Na Uy, Tân Tây Lan, các Châu lục đã nghe pháp âm này, nhờ vào trang mạng Quảng Đức do Thượng Toạ tiếp quản.  


Từng ấy thôi, cũng đủ sức mạnh thường túc của Thượng Toạ làm rung chuyển ma binh chống cự. Hằng năm vân du hành hóa của Thượng Tọa lưu dấu trên năm Châu như: Ấn Độ, Bhutan, Tây Tạng, Trung Hoa, Miến Điện, Tích Lan, Thái Lan, quả thật sức tu học ngoài trăng Lăng già chiếu bóng; Bát nhã thiền gói bịch cơm Hương tích đàn na. Vân quang mạch xứ cứ vậy mà Phật giáo thế giới phải cung nghi ngưỡng vọng, không những Phật tử cư sĩ nam nữ, mà còn danh tiếng nhìn lên thấy hương trầm từ chư vị Tôn túc cao minh chứng giám.

 

Kẻ Sĩ Thế Tôi lắng nghe bài học về Thiền Sư Khương Tăng Hội ( ?-280) có giảng về Kinh An Ban Thủ Ý.

Thượng tọa trích giảng rằng:  “An Ban gồm có sáu loại, nhằm đối trị sáu tình. Sáu tình chính là 6 căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.

 

 Sáu loại, chính là: Sổ tức, Tùy tức, Chỉ, Quán, Hoàn, Tịnh. Đây là Lục diệu Pháp môn, 6 cửa đưa hành giả đi vào trong chánh đạo, giác ngộ và giải thoát:

1) Sổ tức môn: Hành giả chú tâm vào hơi thở vô, ra đếm 1 đến 10 để cho tâm không vọng tưởng, điên đảo. Nếu đếm sai, lộn do tán tâm, phải bỏ và đếm lại từ đầu cho đến khi đếm thông suốt, chánh niệm.

2) Tùy tức môn: Khi việc đếm hơi thở đã được thông suốt trong chánh niệm, hành giả chuyển sang bước 2 là theo dõi đường đi của hơi thở vô và ra.

3) Chỉ môn: Không đếm, không theo dõi hơi thở mà dừng tâm lại chóp mũi.

4) Quán môn: Hành giả nhìn sâu, quán chiếu ngũ uẩn vốn không, quán thân bất tịnh, quán tâm bất an, quán thọ thị khổ, quán pháp vô ngã để phá chấp ngã, chấp pháp…

5) Hoàn môn: Hành giả xoay tâm quán chiếu bản tâm của mình để chứng thực vô lậu giải thoát.

6) Tịnh môn: Khi tâm đạt đến vô lậu thì mọi phiền não cấu uế vô minh lắng xuống tận diệt hoàn toàn, hành giả bước vào Niết bàn an lạc….”

     
Và đây lời dạy khá hay, Thượng Tọa giải thích câu:  “Một niệm không sanh vạn mối hòa”.  Tất cả các pháp môn tu đều phải đạt tới: “Một niệm không sanh” là đạt tới cứu cánh cuối cùng của sự chấm dứt sanh tử luân hồi. Một niệm không sanh, tâm an ổn, là chìa khoá đi vào cõi Cực lạc của Đức Phật A Di Đà.

 

Qua từng thời gian thôi ta cũng hiểu sự lý và sự tuệ của Thượng Tọa như bao trùm khắp thời gian. Trong pháp hành hóa chúng giữ nghìn trùng nhân duyên.

 

Thượng Tọa còn được diện kiến quý Ngài danh tăng thạc đức VN như: Hòa Thượng Trí Nghiêm, Thiện Siêu, Đức Nhuận, Đỗng Minh, Chí Tín, Trừng San, Minh Châu, Như Ý,  Thiện Bình, Tâm Châu, Đạt Lai Đạt Ma-14,  Khensur Rinpoche, Huyền Tôn, Như Huệ, Thắng Hoan, Minh Tâm ( Pháp) Tín Nghĩa, Bảo Lạc, Tánh Thiệt,   Đạt Lai Đạt Ma-14, Lạt Ma Khensur Rinpoche, Phước Sơn, Tuệ Sỹ, Đức Thắng, Như Điển, Khế Chơn, Hải Ấn, Thái Hòa...và nhiều vị mà Thượng tọa đã thọ giáo, tham học nhiều căn bản tinh hoa..!  Trang Pháp học Khắp đó đây đã lắng nghe vang dội, khí trượng phu như mạch phúc thổi tâm.

         

Kẻ Sĩ Thế Tôi xin tán thán bài cảm mạch sau:

“Hương Suối Tuệ, Vang Danh Từng Không Nguyện.

Giới Thanh Âm, Trăng Sáng Cội Tùng Lâm.

Ngát Sen Kinh, Pháp Ngọc Luận Châu Pha.

Từ Bi Trí, Giữa Mối Đạo Nghi Trầm.

      

Dịch Thuật Giải, Tha Mây Chân Lối Hạnh.

Bậc Tôn Sư, Nguyên Tạng Thấm Huyền Kinh.

 Xứ Úc Châu, Thấm Nhuần Thanh Diệu Pháp.

Lược Ước Kiều, Ru Mãi Pháp Thiền Sinh.

 

Từ Học Giả, Ngân Kinh Thì Lược Thuật.

Luận Đàm Khương, Phóng Tác Gối Nhả Tơ.

Sâu Đến Cạn, Ứng Hành Lời Thầy Tổ.

Chuyển Nghiệp Xưa, Ôm Mộng Pháp Lên Bờ.

Cung Kính Bậc, Giảng Sư Niềm Quảng Đức.

Sự Nghiệp Truyền, Hoằng Hóa Thế Độ Tăng.

Hàng Thất Chúng, Năm Châu Đồng Quy Ngưỡng.

Vọng Hướng Thiền, Giữa Một Cõi Thiền Năng…”

 

Giờ đây, trong không gian tịch lắng từ Xứ Việt Quê hương, Kẻ Sĩ Thế Tôi vọng về vùng quốc độ Úc Châu, chắp tay đài hoa xin nguyện, Pháp Tướng Uy Nghi, dung thông dịch thuật, ngõ hầu cho muôn người những dòng tuệ pháp, những sữa thạch đấng hương tuệ bang trao, từng ngọn sóng Tùng vào trượng thất thiếu lâm Phật Cung xưa, nơi thức giả thính chúng vọng tuệ ngàn hương bay…! 

 

Viết tại Thiền Thất Phổ Tịnh- Hà nội, nhân mùa Hạ an cư, giữa mùa bệnh viêm phổi COVID-19. Từ nơi xa ấy vọng về tâm hương…! 

 

TK Thích Minh Thế

Bút danh: Hỷ Tâm Hải Triều.

Bút hiệu: Tịnh Nhật Vân Quang 

Ngày 03-08-2021

 Ngày Âm Lịch: 25-06- Tân Sửu.

 

 

facebook-1
***
youtube
 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/07/2015(Xem: 24586)
Trong sinh hoạt thường nhật ở Chùa ai ai cũng từng nghe qua câu “Ăn cơm Hương Tích, uống trà Tào Khê, ngồi thuyền Bát Nhã, ngắm trăng Lăng Già “, do đó mà nhiều người thắc mắc “Thuyền Bát Nhã” là loại thuyền như thế nào? Bài viết này sẽ giải đáp đôi điều về nghi vấn ấy. Nói theo Thập Nhị Bộ Kinh, Thuyền Bát Nhã là pháp dụ, tức lấy thí dụ trong thực tế đời thường để hiển bày pháp bí yếu của Phật. Thuyền là chỉ cho các loại thuyền, bè, ghe đi lại trên sông, trên biển. Còn Bát Nhã là trí tuệ, một loại trí tuệ thấu triệt cùng tận chân tướng của vạn pháp trên thế gian là không thật có, là huyền ảo không có thực thể, mà nói theo Đại Trí Độ Luận thì mọi thứ trên thế gian này như bóng trong gương, như trăng dưới nước, như mộng, như sóng nắng… để từ đó hành giả đi đến sự giác ngộ giải thoát vì giác ngộ được chân lý “Nhất thiết pháp vô ngã”. Do vậy, Thuyền Bát Nhã chính là con thuyền trí tuệ có thể chuyên chở chúng sanh vượt qua biển khổ sanh tử để đến bến bờ Niết bàn giải thoát an vui.
01/07/2015(Xem: 20855)
Chủ đề Một Cõi Đi Về, Thơ và Tạp Bút tập hai, một lần nữa, được cái cơ duyên thuận lợi hân hạnh ra mắt quý độc giả. Cách đây ba năm tập một đã được xuất bản vào năm 2011. Hình thức và nội dung của tập hai nầy, cũng không khác tập một. Nghĩa là chúng tôi cũng chia ra làm hai phần: Phần đầu là thơ và phần sau là những bài viết rải rác đã được đăng tải trên các tờ Đặc san Phước Huệ. Tờ báo mỗi năm phát hành ba kỳ vào những dịp đại lễ như: Phật Đản, Vu Lan và Tết Nguyên Đán. Do đó nên những bài viết có những tiêu đề trùng hợp và nội dung có chút ít giống nhau. Tuy nhiên, mỗi bài đều có những sắc thái hương vị riêng của nó. Ngoài ra, có những bài viết với những tiêu đề khác không nằm trong phạm vi của những ngày đại lễ đặc biệt đó. Nay chúng tôi gom góp tất cả những bài viết đó lại để in chung thành một quyển sách tập hai nầy. Về ý nghĩa của chủ đề nói trên, chúng tôi cũng đã có trình bày rõ trong tập một. Ở đây, chúng tôi không muốn lặp lại. Điều quan trọng mà chúng tôi muốn nói ở đây là
01/07/2015(Xem: 11837)
Có những tiếng những lời những âm thanh nghe hoài không chán, nghe mãi không quên, không nghe thì trông ngóng đợi chờ. Tiếng nói của người thương kẻ nhớ kẻ đợi người mong, âm thanh của những ngọt ngào êm dịu, lời ru miên man đưa ta về miền gợi nhớ, những yêu thương da diết chôn dấu trong từng góc khuất, những trăn trở buồn vui có dịp đi qua. Và còn nữa, những thứ mà lúc nào ta cũng trông mong, lời khen tán thưởng tiếng vỗ tay tung hô của thiên hạ.
29/06/2015(Xem: 9726)
Như truyền thông đại chúng đã loan tải vào ngày 24 tháng 4/ 2015 một trận động đất xảy ra tại đất nước Nepal đã làm thiệt mạng gần 9.000 nạn nhân, và làm sập hư trên 100.000 ngôi nhà, trong hiện tại có trên 200.000 người không nhà cửa, và hàng ngàn trẻ em mồ côi cha mẹ. Nhìn thấy cảnh đời bể dâu tang thương đổ nát của người dân Nepal, Hòa Thượng Hội Chủ Thích Như Huệ đã ra thông tư, cũng như tâm thư kêu gọi lòng từ tâm của người con Phật. Sau gần 2 tháng kêu gọi, với tấm lòng tùy tâm của đồng hương Phật tử xa gần trong và ngoài nước Úc, cũng như 37 tự viện thành viên của Giáo Hội đã đem đến kết quả với số tiền cứu trợ là $ 304.900. Úc Kim. Phái Đoàn Cứu Trợ Nepal thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan đã lên đường vào tối ngày 8.6.2015 tại sân bay Melbourne.
29/06/2015(Xem: 8318)
Thời tiết mùa hè năm nay bất thường. Đã có những ngày quá oi bức, và cũng có những ngày lù mù, không mưa không nắng, gió se lạnh. Khí hậu đôi khi cũng tác động vào lòng người, khiến họ dễ bẳn gắt, khó chịu. Những người đã nuôi dưỡng từ lâu sự kỳ thị, thành kiến, hay tỵ hiềm nào đó, có thể bị thời tiết nóng bức châm ngòi cho sân hận và sự bạo động. Đã có những cuộc khủng bố đơn phương hoặc nhân danh tổ chức (thế tục hay tôn giáo) diễn ra khắp hành tinh trong những tháng năm qua.
27/06/2015(Xem: 12343)
Qua 4000 năm Văn Hiến của dân tộc thì trên 2000 năm, Phật giáo có mặt, đồng hành cùng dân tộc. Tính từ thời lập quốc họ Hồng Bàng – Kinh Dương Vương tên nước là Xích Quỷ (năm 2879 trước c.n) đến thời nhà Lý vào năm 1010-1225 đã là 4000 năm, đến nay cũng gần 5.000 năm. Từ thời lập quốc ở Trường Giang, bị Hoa tộc lấn dần cho đến Hùng Vương qua 18 đời, đất nước Văn Lang chỉ còn lại Bắc Việt và Bắc Trung Việt ngày nay.Quê hương vốn ở Hồ Động Đình, do Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh 100 con lập quốc. Kinh Dương Vương là con của Đế Minh và Vụ Tiên, là cháu ba đời của Thần Nông, mà Thần Nông là một trong Tam Hoàng thời thượng cổ.Như thế, Lạc Long Quân là con của Kinh Dương Vương, Kinh Dương Vương là họ Hồng Bàng, lấy quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương truyền ngôi cho Lạc Long Quân, Lạc Long Quân truyền cho Hùng Vương, lấy quốc hiệu là Văn Lang. Từ thời kinh Dương Vương lập quốc đến nay, dân tộc trãi qua 11 lần thay danh đổi hiệu:
24/06/2015(Xem: 31774)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
23/06/2015(Xem: 13300)
Câu hỏi: Lý do tại sao Trịnh Hội lại đi học tu? Có phải bị mất phương hướng cuộc đời hay chán cuộc đời nhiều phiền toái?(Than Nguyen ) Trả lời: Xin chào anh Than Nguyen. Có hai lý do chính thưa anh. Thứ nhất vì cách đây 3 năm mình có lời cầu nguyện với chư Phật là nếu cho mình cơ hội làm xong công việc giúp những thuyên nhân Việt Nam cuối cùng tại Thái Lan, mình sẽ xuống tóc để cảm ơn. Thứ hai là, một công hai việc, mình muốn và cần một thời gian tĩnh lặng để xem mình thật sự muốn làm gì trong suốt quãng đời còn lại.
23/06/2015(Xem: 12534)
Hơn hai mươi năm trước, khi đọc được bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế nói về tiếng chuông Chùa Hàn San ở Tô Châu bên Trung Hoa, tôi cứ thắc mắc không hiểu tại sao thơ Đường có không biết bao nhiêu bài thơ tuyệt tác, vậy mà bài thơ chỉ bốn câu này lại gây ra bao nhiêu cuộc bút đàm tốn bao nhiêu giấy mực. Hay tại vì ngôi Chùa ở bến Cô Tô này đã quá nổi tiếng chăng? Nhưng đã ngờ thì phải cố mày mò tìm cho ra lẽ. Tôi tìm đọc thêm những câu chuyện chung quanh quả Đại hồng chung và tiếng chuông Hàn San. Nhiều huyền thoại đọc thật thú vị nhưng sao thấy nó cứ thực thực hư hư! Trong số ấy có một câu chuyện nói rằng, tiếng chuông chùa Hàn San có thể ngân vang rất xa, xa
21/06/2015(Xem: 7665)
Văn phòng Chính phủ Tây Tạng lưu vong, Dharamsala đưa tin – Hội nghị Tôn giáo lần thứ 12 của bốn truyền thống Phật giáo Tây Tạng đã diễn ra vào các ngày 18-20/06/2015 tại Dharamsala miền bắc của bang Himachal Pradesh, Tây Bắc của Ấn Độ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]