Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tản mạn về tiếng Việt và Hán Việt: tại sao Trung Quốc dùng danh từ khoái 筷 còn Việt Nam dùng đũa (trợ 箸)? (phần B)

15/04/202120:30(Xem: 9262)
Tản mạn về tiếng Việt và Hán Việt: tại sao Trung Quốc dùng danh từ khoái 筷 còn Việt Nam dùng đũa (trợ 箸)? (phần B)

 Tản mạn về tiếng Việt và Hán Việt: tại sao Trung Quốc
dùng danh từ khoái
còn Việt Nam dùng đũa (trợ )? (phần B)

Nguyễn Cung Thông[1]

Bài viết này (phần B) cập nhật và tóm tắt buổi trình bày về bài viết "Tản mạn về tiếng Việt và Hán Việt: tại sao Trung Quốc dùng danh từ khoái 筷 còn Việt Nam dùng đũa (trợ 箸)?" tại hội thảo UNC2021_0116 tại Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN (sẽ diễn ra vào ngày 24/4/2021). Các trang bên dưới được trích từ các trang của Power Point Presentation, dựa vào bài viết đã đăng và dán lên đây theo dạng word cho dễ đọc hơn.

Trang 1 - Ba vùng[2] văn hóa ẩm thực: vùng dùng đũa (khoanh lại bằng vạch đỏ), dao/nĩa và tay không

Tai-Sao-TQ-dung-danh-tu-000

Để ý ảnh hưởng/hiện tượng vùng (areal phenomenon) rất rõ nét qua công cụ dùng trong bữa ăn - so với các nước đồng văn (từng dùng một loại chữ - Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam). Để ý thêm là có tác giả từng nhận xét đũa TQ/VN đầu tròn đuôi vuông (triết lý âm dương, trời tròn đất vuông) và dài để gắp xa được và chia sẻ đồ gắp[3], đũa Hàn quốc thường bằng kim loại cho thức ăn BBQ (đồ nướng nóng) hay còn có truyền thuyết là do vệ sinh "chống độc". Đũa Nhật Bản thì ngắn và nhọn hơn vì thường gắp món ăn thái nhỏ và chỉ dùng cho từng cá nhân mà thôi (không dùng chung thức ăn và không cần gắp ở xa).

Các chữ viết tắt là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895). Người đọc nên tham khảo bài viết "Tản mạn về tiếng Việt và Hán Việt: tại sao Trung Quốc dùng danh từ khoái 筷 còn Việt Nam dùng đũa (trợ 箸)?" cho được liên tục.

 

Trang 2 - Các từ HV chỉ đũa - trích từ trang https://www.3rxing.org/question/2d8c1d72dc193021178.html không theo thứ tự thời gian.

1) anh 英   

2) đề sách 提策 - sách còn có nghĩa là thẻ gấp, gậy chống

3) trứ/trợ 櫡 (bộ mộc) so với các dạng 筯 𥯄 箸 (bộ trúc) (b)

4) giáp 梜  (a)

5) cân 筋 (c)

6) sao 筲 (đũa tre)

7) doanh 贏

8) khoái 筷 - khoái tử 筷子 (d)

Xem trang sau (trang 4) về các giai đoạn (a) (b) (c) (d). Các học giả TQ thường chịu khó ghi chép, nhất là khi đến các vùng xa và sâu, do đó trong vốn từ Hán (Cổ) có nhiều dữ kiện từ phương ngữ của các sắc tộc khác nhau.

Trang 3 - Một ngữ căn của nác/nước có thể là dạng tiền Nam Á *hdaak để cho ra dạng đaknác > nước trong các tiếng Bahna, Mnong, Kơho, Mường, Việt … Dạng nác (nước) còn được duy trì trong các tiếng địa phương VN như Quảng Trị, Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hoá (cd. khôn ăn nác, dại ăn xác) … So với dạng dak3 (Mường Bi, Nguồn), dak2 (Chứt), tik/tưk (Khme), dak (Môn, Rơngao, Sakai, Biat), đek/đak (Mnông), đaq (Tà Ôi, Chơro, Kơho) …v.v… Một số địa danh, sông ngòi cũng dùng *đak (nước) cho thấy rõ ràng âm này đến từ phương Nam. Chữ đắc (thanh mẫu đoan 端 vận mẫu đức 德 nhập thanh, khai khẩu nhất đẳng) - chữ hiếm với tần số dùng là 161 trên 171894734 có các cách đọc theo phiên thiết:

都勒切 đô lặc thiết (NT, TTTH) - NT/TTTH đều ghi là thủy dã 水.

都則切 đô tắc thiết (QV) - QV ghi là thủy mạo 水貌. 的則切,音德 đích tắc thiết, âm đức (TV, LT) - TV/LT ghi thủy mạo, chú thêm là 一曰水名 nhất viết thủy danh (để ý nghĩa mở rộng từ nước/chất lỏng đến hình dạng ướt/nước và tên sông nước ...).

丁力切 đinh lực thiết (QV). 丁力反 đinh lực phản (LKTG). 音得 âm đắc (LKTG). 多則切,音德 đa tắc thiết, âm đức (TVi, CTT) - các tài liệu sau thời TV/LT như TVi/CTT ghi thủy mạo. Xem chi tiết trong bản chụp các tài liệu Hán (Cổ) bên dưới. Các từ có gốc phương Nam (ngữ hệ Nam Á như *dak chẳng hạn) làm vốn từ Hán trở nên rất phong phú.

                         Tai-Sao-TQ-dung-danh-tu-001-1

Trang 4 - giáp (a) >  trứ/trợ (b) > cân (c)  >  khoái (d)

Tiếng Việt (a), (b) bảo lưu các dạng kẹp (*ke:b > giáp) , đũa (*ȡʱi̯wo > trứ/trợ).

Tiếng Hàn, Nhật (b) dùng trợ/trứ.

Tiếng Trung (Quốc) **a, **b, **c, d. Hai dấu hoa thị ** hàm ý đã từng hiện diện trong ngôn ngữ. Tần số xuất hiện (tần suất) của chữ khoái bộ trúc là 2792 trên 434717750, so với chữ trợ bộ trúc và chữ giả HT là 1010 trên 432068615 và chữ trợ bộ trúc và chữ trợ HT là 4 trên 65348624. Các chữ giáp bộ mộc thì rất hiếm và ít có tài liệu sử dụng, thành ra các dữ kiện này cho thấy sự phổ thông của danh từ khoái chỉ đũa thời nay ở TQ.  Có lẽ nên nhắc ở đây là đũa tiếng Hàn đọc là jeotgarak 젓가락 (đọc như chở tả rà giọng Nam VN), 젓 là biến âm của trợ (đũa 箸) còn garak là cái/chiếc (que). Từ này hiện diện trong cuốn "Cứu cấp giản dịch phương ngạn giải" 救急簡易方諺解 Gugeupganibang eonhae 구급간이방언해 vào năm 1489. Tiếng Nhật[4] cũng viết là trợ 箸 nhưng đọc là はし hashi (trọng âm ở vần đầu ha-). Theo người viết/NCT thì một cách giải thích có thể là ha một biến âm từ *chia trở thành ha - *chia là một dạng âm trung cổ/xát hóa của giáp (so với *ke:b hay kẹp là âm cổ hơn với phụ âm đầu là âm tắc/gốc lưỡi k-), còn -shi là âm đọc của tử 子. Một cách giải thích khác là ha là âm (Nhật) đọc bát 八 (số tám) và shi là âm đọc tứ 四 (số 4), dựa vào ngày lễ đũa toàn quốc ở Nhật là ngày 4 tháng 8. Tiếng Nhật tháng 8 là Hachigatsu【八月:はちがつ】và 4 là Yon【四:よん】 hay Shi【四:し】 thành ra ghép hai âm để cho ra Ha-Shi 【箸:はし】 chỉ đũa. Dạng âm cổ đũa còn hiện diện trong tiếng Lào ຖູ່ (thū) > ໄມ້ຖູ່ (mai thū ~ đũa), tiếng Myamar တူ (tu ~ đũa). Người Thái dùng đũa khi ăn mì   (ảnh hưởng sau này từ các đợt di dân từ Nam TQ và ĐNA) và gọi đũa là ตะเกียบ [ta-kiab] với kiab có khả năng liên hệ đến kẹp (gắp - giáp HV).

Trang 5 - Cập nhật mục số 1 của bài viết đã dẫn (đã có 1.1 đến 1.21)

1. 22 Quảng Nhã, Thích Khí - khoảng TK 3 SCN (Trương Ấp biên soạn) ghi 莢謂之箸 giáp vị chi trứ (tạm dịch/NCT: giáp kêu là trứ).

1.23 Hán Thư, Vương Mãng truyện - năm 111 SCN - ghi 以鐵箸食 dĩ thiết trứ thực (tạm dịch/NCT làm đũa bằng sắt để ăn).

1.24 Một số đũa bằng đồng thiếc (bronze) được khai quật ở tỉnh An Huy (1980) và tỉnh Vân Nam ở TQ (bài viết của Lô Mậu Thôn 卢茂村, hay của Q. Edward Wang sđd). 6 chiếc đũa bằng đồng thiếc được khai quật ở Hồ Nam, niên đại khoảng 1200 TCN. Đũa bạc cũng được tìm thấy trong mộ đời Tùy (581-618) ...v.v...

Trang 6 - Tương quan đ - tr (đũa - trứ/trợ): các chữ dùng trọng làm thành phần hài thanh

1. Các cách đọc chữ 箸 著 櫡 筯 𥯄 là 遲倨切 trì cứ thiết (TVGT, QV), 除魚切 trừ ngư thiết (NT), 遲據切 trì cứ thiết (TV, LT, VH), 陟據反 trắc cứ phản (LKTG), 直據反 trực cứ phản (LKTG), 直據切 trực cứ thiết (TTTH), 陟慮切 trắc lự thiết (TVGT, QV, LT, CV) - TVGT, Hán Thư/TVi ghi trợ là dùng để ăn cơm (食所用也 thực sở dụng dã) ... 丁吕切 đinh lữ thiết (QV) - đây là một cách đọc cho thấy âm cổ có phụ âm đầu là âm tắc/đầu lưỡi/hữu thanh, dẫn đến một dạng âm cổ phục nguyên là *ȡʱi̯wo đọc gần như âm đũa tiếng Việt. Tương quan đ - tr lâu đời hơn so với tương quan đ - d (td. kín dáo ~ kín đáo, cây dea ~ cây đa, bánh dea ~ bánh đa) ghi nhận trong VBL - xem thêm các thí dụ về chữ Nôm bên dưới (trang 7).

2. Đổng 董 - Trọng 重– Gióng/thánh Dóng/Gióng là Phù Đổng thiên vương - một trong Tứ Bất Tử. So sánh với chủng 種 - giống, giồng - trồng cũng có thanh phù trọng重. Chữ Nôm dỏng (giỏng) còn dùng bộ khẩu 口 hợp với chữ Đổng 董: theo Truyền Kỳ Mạn Lục 'dỏng môi mà rao lời gièm chê'. Trên diễn đàn Viện Việt Học (Westminster/California - Mỹ) nhiều năm trước, người viết/NCT đã từng ghi lại nhận xét là nếu biết liên hệ ngữ âm đổng - trọng - gióng (dạng ngạc hóa) thì đỡ biết bao nhiêu giấy mực viết về Phù Đổng và thánh Gióng (td. các học giả tiền bối Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Văn Huyên, Đinh Gia Khánh, Bùi Văn Nguyên, Cao Huy Đỉnh, G.Dumoutier ...). Tương quan ngữ âm động - trọng - gióng (dóng) gợi ý về liên hệ giữa các truyền thuyết Phù Đổng - thánh Gióng và (Lý) Ông Trọng trong cổ sử VN (huyền sử thời Hùng Vương). Ngoài ra chữ 棟 có thể đọc là đống (多貢切 đa cống thiết/QV/TV/VH/CV) hay đông (德紅切 đức hồng thiết, hàm ý một loại cây): đống là cột trụ chính trong nhà mà tiếng Việt còn dùng dạng dông trong "đòn dông".

3. Đồng 童 -  trống (không có cây cỏ như đồi, đất; không có tóc như đầu hói)

4. Đồng 瞳 (tử) - tròng mắt

5. Đồng 僮- Tráng 壯 (Choang)

6. Động 動 - so với cách dùng tròng trành (ca dao: Tròng trành như nón không quai, như thuyền không lái như ai không chồng) …v.v…

 Trang 7 - Tương quan đ - d với vài trường hợp chữ Nôm

1. Khuynh hướng biến âm đ > d như đổng > dóng (gióng) hiện diện trong các dạng chữ Nôm như da ghi bằng đa 多 hay 䏧

根固多朋芙蓉{亇恒}拭粉拾 Căn [vốn dĩ] có da bằng [như] phù dung, hằng xức phấn sáp - Phật thuyết, 15a

門䏧典昌門昌典沃 Mòn da đến xương, mòn xương đến óc [tủy] - Phật thuyết, 24a

Tiếng Mường Bi ta là da, ta tlu ~ da trâu ... nhưng để ý: đao - đao, tao – dao, tào - đào,- dạ ...v.v…

2. Dóng chữ Nôm có lúc dùng thanh phù đông 冬 hay đổng 董

咚𥚇麻論等君親 Dóng lưỡi mà luận đấng quân thân - Truyền kỳ, I, Hạng Vương, 9b

鉞鐄馭瑟恆遺底 廊董𡽫鄒 廟[唉]群 Việt [vũ khí cầm tay] vàng ngựa sắt hằng di (doi) để. Làng Dóng non Trâu miếu hãy còn - Hồng Đức, 75b …v.v…

VBL ghi cây da (~ cây đa), kín dáo (~ kín đáo), dớt miệng (~ *đưk miệng > nước miếng) ...

Trang 8 - Nếu tiếng Việt bảo lưu phần nào các dạng âm thanh cổ , thì chữ Hán còn giữ lại hình ảnh (tượng hình) qua các nét khắc/vẽ cổ đại (giáp văn, kim văn …) như trường hợp chữ giáp chẳng hạn: kẹp hay cặp là âm cổ so với chữ giáp  夾 tượng hình bên dưới. Điều này cho thấy hai tiếng Việt (ngữ hệ Nam Á) Hán đã giao lưu ngay từ thời bình minh của ngôn ngữ  khi bắt đầu có chữ viết ghi lại tiếng nói con người.

Tai-Sao-TQ-dung-danh-tu-005

Oracle bone script ~ giáp cốt văn. Bronze inscriptions ~ chung đỉnh văn (kim văn/minh văn). Slip script ~ triện thư (chữ triện) thời Chu, Tần. Seal script ~ tiểu triện (như thời Thuyết Văn Giải Tự). Liushutong ~ Lục Thư thống 六書統 (thờinhà Minh).

Trang 9 - Khuynh hướng xát hóa và ngạc cứng hóa trong ngôn ngữ

Khuynh hướng xát hóa và ngạc cứng hóa của phụ âm cuối lưỡi k để cho ra các phụ âm ch/gi/s như căn gian, keo giao, kéo giảo, kẹp/kép giáp còn hiện diện trong các ngôn ngữ Ấn Âu: loại hình ngôn ngữ centum (duy trì dạng k như trong cách đọc centum của tiếng La Tinh nghĩa là 100, centum > hundred tiếng Anh) so với loại hình ngôn ngữ satem (k đã trở thành s, satem là 100 tiếng Iran - để ý cent tiếng Pháp cũng đọc với phụ âm s tuy viết là cent), thí dụ trong tiếng Việt như các trường hợp chéo - xéo, chẻ - xẻ, chung quanh > xung quanh, giáp > xáp; cũng như sự phân biệt của *kong/gong (Mân Nam) so với giang HV 江 và sông tiếng Việt (để ý thành phần HT của giang là công 工) ... Loại hình ngôn ngữ centum gồm có các ngôn ngữ ở Tây Âu Châu như Germanic, Ý, Hi Lạp ... Loại hình ngôn ngữ satem gồm có các ngôn ngữ Đông Âu Châu như Ba Tư/Persian, Phạn/Sanskrit, Nga, Latvian, Armenian ...v.v... Tóm tắt các biến âm trên (hay khuynh hướng phân cực thành phụ âm đầu k- và s/x-):

[k] cặp - kẹp - gắp - khép - giáp - xáp [s]

[k] kong/QĐ ~ không (Mường Bi) (- cống?) - k(r)ong - giang - sông [s]

[k] cắt - cát - gọt - chặt - xắt [s]

[k] công - trống -  *klống - sống [s]

[k] quăn - quắn - quyền (quấn - cuốn) - xoắn - xoắn [s]

[k] quay - quy - xoay [s]   

[k] kéo đi (trốn đi/VBL trang 357) - xéo ("Nó xéo mất rồi" VNTĐ) [s]…v.v…

Trang 10 - Ngôn ngữ và tâm lý dân gian - âm thanh và khả năng liên tưởng

1. Truyền thống TQ và VN dựa vào âm thanh và khả năng liên tưởng dẫn đến các cách dùng từ láy (tượng thanh) như đàn cò ke và gánh cò ke (gánh cọt kẹt - VBL trang 353), tránh dùng tên các nhân vật cao cấp/quyền lực hay được kính trọng (tị húy 避諱), dùng các từ gợi ý may mắn (hay tránh dùng các âm gợi ý tiêu cực) ...v.v...

2. Tránh dùng âm tứ (四 ~ số 4, sì theo pinyin) gần/cận âm tử (死 ~ chết, sǐ theo pinyin), số 8 là số may mắn nhất trong truyền thống văn hóa TQ vì âm đọc bát 八 (số 8, bā theo pinyin) gần giống âm phát 發 (> phát tài/phát đạt/phát triển...) hay âm fā theo pinyin) ...v.v...

3. Lí Dự Hanh 李豫亨, học giả thời nhà Minh, trong Thôi Bồng Ngụ Ngữ 推篷寤语 (năm 1571) viết rằng "世有忌諱惡字而呼 為美字者,如立箸諱滯,呼為快子, 今因流 傳已 久, 至有士大夫間已有人呼箸為快子者。忘其始也" - tạm dịch/NCT "Người đời kị húy thường đổi các tiếng chỉ sự xấu xa dơ bẩn thành tiếng chỉ sự đẹp đẽ - như âm trợ (trứ, đũa) kị sự ngừng lại (đình trệ, trú - trụ) thành ra đổi thành khoái tử  (khoái là vui, nhanh). Từ đó lưu truyền trong nhân gian, và được dùng trong văn chương là khoái tử thay cho trợ/trứ mà không còn biết cách dùng này bắt đầu từ đâu". Để ý chữ khoái viết là khoái bộ tâm 快 (nghĩa là vui, nhanh, sắc) vào thời Lục Dung và Lí Dư Hanh, sau này mới bộ trúc vào để cho rõ nghĩa đũa hơn. Cũng có thuyết cho rằng trứ/trợ đọc giống như chú 蛀 (zhù theo pinyin ~ mọt gỗ) nên kị. Một điều thú vị nên nhắc ở đầy là đũa (và cơm) cũng dùng trong việc cúng vong linh người quá cố vì khoái bộ trúc 筷 (~ đũa) đọc như khoái bộ tâm 快 (mau, nhanh cũng có nghĩa là vui, sướng),

Trang 11 - Bản đồ các địa phương TQ dùng trợ (vòng tròn tô đậm), khoái (vòng tròn trống) dùng hoàn toàn - so với một phần (vòng tròn tô đậm một nửa, vừa dùng trợ vừa dùng khoái) - cầu cho người quá cố được 'sống' vui vẻ cho đời sau và về sum họp với người thân…

Tai-Sao-TQ-dung-danh-tu-006

Để ý sự phân bố dày đặc (khu vực dùng trứ/trợ) từ tỉnh Chiết Giang đến Phúc Kiến nhưng thưa dần đi khi đến Hồng Kông nhưng lại tăng lên ở các miền ven biển ở các đảo Hải Nam và Đài Loan. Khuynh hướng phân bố trên cho thấy phương tiện hội nhập bằng đường biển rất rõ nét so với nội địa. Nhìn rộng ra hơn - xem thêm chi tiết bản đồ tiếng Mân (Nam) bên dưới:

Trang 12 - Tiếng Mân Nam ở Trung Quốc và Đài Loan

Tai-Sao-TQ-dung-danh-tu-007

Bản đồ phân bố ngôn ngữ trên trích từ cuốn "Language Atlas of China" by Stephen Adolphe Wurm, Li Rong, Theo Baumann, and Mei W. Lee - NXB Longman, 1987. Liên hệ Việt Nam và Mân Nam còn thấy trong nguồn gốc nhà Trần, lẫn lộn phụ âm đầu n - l, cách gọi đậu hủ - đậu phụ, Chincheo (Tân Châu) mà người viết (NCT) đã đề cập trong các bài viết trước đây ...

Trang 13 - Các LM dòng Tên và văn hóa ẩm thực Á Đông

Cuốn “De Christiana expeditione apud Sinas[5] (tạm dịch từ tiếng La Tinh/NCT: nhiệm vụ truyền đạo của giáo sĩ dòng Tên ở Trung Quốc …) viết bởi LM Matteo Ricci (bản dịch ra tiếng La Tinh từ tiếng Ý bởi LM Nicolas Trigault) được xuất bản vào năm 1615 ở Augsburg (Đức). LM dòng Tên Matteo Ricci (1552-1610) đã viết về đũa dùng ở TQ "Khi ăn họ (người Trung Hoa/NCT) không dùng dao, nĩa hay muỗng nhưng bằng những que đũa trơn nhẵn dài khoảng một bàn tay và một nữa (a palm and a half/NCT) và đút đồ ăn vào miệng mà không đụng đến ngón tay". Palm là lòng bàn tay - đơn vị chiều dài thời Trung cổ ở Ý, La Mã, Pháp ...) - chiều dài này có khác biệt tùy vùng, a palm and a half là khoảng 22 + 11 = 33 cm (đũa khá dài của TQ so với các loại đũa Nhật và Hàn).Các bài viết/báo cáo của giáo sĩ Matteo Ricci là những thông tin đầu tiên và chính xác (từ trải nghiệm cá nhân ngay tại địa phương) cho Tây phương về văn hoá ẩm thực Đông phương. Xem thêm chi tiết trong bài viết liên hệ (NCT) về nhận xét của LM Alexandre de Rhodes (1591-1660) về ba không gian ẩm thực lớn trên thế giới: phương Tây dùng dao/thìa/nĩa, Nam Á (td. Ấn Độ) dùng tay không và phương Đông dùng đũa (PGTN trang 109). Xem thêm chi tiết trên  trang này https://folgerpedia.folger.edu/Imagining_China:_the_View_from_Europe,_1500%E2%80%931700 . Không phải chỉ có văn hóa ẩm thực phương Đông, lần đầu tiên các tôn giáo (đặc biệt là Phật giáo) và phong tục xã hội địa phương đã được phương Tây biết đến chính xác hơn. LM Matteo Ricci còn được gọi là "Khổng Tử của phương Tây" (Confucius of the West).

Trang 14 - Cuốn “De Christiana expeditione apud Sinas. Ở góc phải cuối trang bìa ghi MCDXV (~ năm 1615) ngay dưới hình vẽ LM Ricci trong trang phục của giới sĩ phu TQ cách đây 4 TK (khác với trang phục của LM dòng Tên Francis Xavier bên trái). Để ý ở giữa là bản đồ TQ và thế giới do LM Ricci hợp soạn cùng một số học giả địa phương, cho thấy ‘vị trí và kích thước tương đối’ của lãnh thổ TQ trong thế giới (hoàn toàn mới lạ đối với TQ thời gian này).

Tai-Sao-TQ-dung-danh-tu-008

Trang 15 - Kết luận tạm thời cho phần này

Tìm hiểu lịch sử chữ đũa hay trứ/trợ trong tiếng Việt và Hán Việt, đặc biệt là các phương ngữ Nam TQ, cho thấy một quá trình giao lưu văn hóa rất lâu đời. Sau khi giành lại độc lập, tiếng Việt rời xa quỹ đạo của tiếng Hán, tuy nhiên vẫn còn bảo lưu một số âm cổ từ thời kỳ giao lưu tiên Tần. Thí dụ như tên gọi 12 con giáp chẳng hạn: *tlu (~ tru, trâu) là âm cổ của Sửu, Mùi là âm cổ của Vị, Mẹo (mèo) là âm cổ của Mão ...v.v… Đây là những dấu ấn trong ngôn ngữ mà khi tra cứu sâu xa hơn, cùng với các dữ kiện lịch sử, khảo cổ cho ta nhiều kết quả thú vị, và đánh giá lại nguồn gốc của tên gọi 12 con giáp. Vốn từ Hán (Cổ) rất phong phú cũng như tài liệu để lại cho thấy một số từ gốc phương Nam (td. ngữ hệ Nam Á, đák đắc nác > nước chẳng hạn) cần được nghiên cứu nghiêm túc hơn để truy nguyên thêm chính xác.



[1] Nghiên cứu ngôn ngữ độc lập ở Melbourne (Úc) – email [email protected]

[3] Xem thêm chi tiết  mục "Trang 13" bên dưới về chiều dài chiếc đũa TQ vào cuối TK 16 theo LM Ricci.

[4] Các loại đũa có thể là saibashi (さいばし ~ 菜箸 thái trứ HV) là loại đũa dài hơn để gắp thức ăn ra bát đĩa ... Ở Thượng Hải có viện bảo tàng (上海民间民俗筷箸馆) chứa hơn 1200 đôi đũa và cổ nhất là từ đời Đường.

[5] Đầu đề đầy đủ là "De Christiana expeditione apud sinas suscepta ab Societate Jesu. Ex P. Matthaei Riccii eiusdem Societatis commentariis Libri V: Ad S.D.N. Paulum V. In Quibus Sinensis Regni mores, leges, atque instituta, & novae illius Ecclesiae difficillima primordia accurate & summa fide describuntur"

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/06/2021(Xem: 5469)
Mới đó mà Ông ra đi đã 5 năm rồi! Tháng 5 lại trở về. Nhớ đến Ông tôi lại muốn viết mà có lẽ viết bao nhiêu cũng không đủ. Ông ra đi đã để lại một niềm xúc động trong trái tim tôi, và không chỉ riêng tôi mà còn biết bao người, bao gia đình đã được Ông cứu vớt từ con tàu CAP ANAMUR khi những con thuyền người Việt lênh đênh trên đường vượt biên ngày nào. Ông chính là đại ân nhân của gia đình tôi, vì nếu không có Ông, con tôi đã nằm trong bụng cá từ lâu rồi. Chính vì vậy, gia đình tôi vẫn nhớ ơn Ông đời đời và cũng thật bàng hoàng đau đớn lúc hay tin Ông đã lìa cõi trần. Bây giờ ngồi nhớ lại nỗi đau ấy vẫn còn như đâu đây.
09/06/2021(Xem: 4974)
Kể từ khi con người mới bắt đầu xuất hiện trên quả địa cầu nầy. Trong trang nghiêm kiếp của quá khứ, hiền kiếp của hiện tại, hay tinh tú kiếp của tương lai thì sự tu học của chư Tăng Ni và Phật tử vẫn là những điều kiện cần thiết để xiển dương giáo lý Phật đà. Nhằm tiếp nối tinh hoa tuệ giác siêu việt của chư Phật, chư Bồ tát, chư vị Tổ sư đã kinh qua trong suốt nhiều đời, nhiều kiếp mới có được sự kế tục đến ngày hôm nay. Nếu dùng thời gian hiện tại của kiếp nầy, kể từ thời Đức Phật Thích-ca Mâu-ni giáng thế đến nay chỉ trên 2.500 năm, mà chúng ta đã có vô số văn kiện và dữ liệu để tham cứu học hỏi, tu niệm, và cần bàn đến. Gần gũi và trung thực nhất là hai bộ thánh điển Phật giáo của truyền thống Nam và Bắc truyền. Nếu căn cứ theo đó để nghiên cứu thì chúng ta sẽ có một đáp án tương đối chính xác để ghi nhận những giá trị về Văn hóa và Giáo dục xuyên qua nhiều tâm lực và nguyện lực của các bậc tiền nhân.
09/06/2021(Xem: 5807)
NHƯ LỜI GIỚI THIỆU CỦA ARTHUR Zajonc, cuộc gặp gỡ Tâm thức và Đời Sống lần thứ mười đã đưa chúng ta vào một hành trình dài, từ những thành phần đơn giản nhất của vật chất đến sự phức tạp của ý thức con người. Cuốn sách này theo dõi hành trình đó diễn ra trong suốt một tuần trong một căn phòng chật cứng tại tư dinh của Đức Đạt Lai Lạt Ma trên ngưỡng cửa của dãy Himalaya. Làm thế nào để bắt đầu theo dõi quỹ đạo đầy tham vọng, dường như bao la này? Chúng ta sẽ bắt đầu với tuyên bố mờ đầu thuyết trình của Steven Chu, nhà vật lý đoạt giải Nobel: “Điều quan trọng nhất mà chúng ta biết là thế giới được tạo ra từ các nguyên tử. Đây là quan điểm mà hầu hết các nhà vật lý ngày nay, vào đầu thế kỷ XXI, đồng ý với quan điểm này ”.
09/06/2021(Xem: 6265)
Trong Phật bảo, pháp bảo và Tăng bảo, Chúng con quy y cho đến khi đạt đến giác ngộ. Qua công đức của thực hành sáu ba la mật, Nguyện cho chúng con thành tựu quả Phật vì lợi ích của tất cả chúng sanh.
07/06/2021(Xem: 13795)
Trong mùa an cư kiết hạ năm nay (1984), sau khi đã viết xong quyển "Lễ Nhạc Phật Giáo“, tôi định dịch quyển luận "Đại Thừa Khởi Tín" từ Đại Tạng Kinh, cùng với quý Thầy khác, nhưng không thực hiện được ý định đó. Vì quý Thầy bận nhiều Phật sự phải đi xa. Do đó, tôi đình chỉ việc dịch trên. Sở dĩ như thế, vì tôi nghĩ, tài mình còn non, sức còn kém; đem ý thô sơ, tâm vụng dịch lời kinh Phật chỉ một mình làm sao tránh được những lỗi lầm, thiếu sót. Nếu có nhiều Thầy dịch cùng một lúc, văn ý trong sáng mà lại bổ khuyết cho nhau chỗ thừa, nơi thiếu thì hay hơn; thôi đành phải chờ dịp khác vậy.
07/06/2021(Xem: 14362)
LỜI NÓI ĐẦU Hôm nay là ngày 1 tháng 8 năm 2020, nhằm ngày 12 tháng 6 âm lịch năm Canh Tý, Phật lịch 2564, Phật Đản lần thứ 2644, tại thư phòng Tổ Đình Viên Giác, Hannover, Đức Quốc, tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 68. Hôm nay cũng là ngày có nhiệt độ cao nhất, 32 độ C, trong mùa dịch Covid-19 đang lan truyền khắp nơi trên thế giới. Sau hơn 5 tháng ròng rã, tôi đã đọc qua 8 tập kinh Việt dịch trong Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh, từ tập 195 đến tập 202, thuộc Bộ Sự Vị, được dịch từ 2 tập 53 và 54 của Đại Chánh Tạng.1 Nguyên văn chữ Hán 2 tập này gồm 2.260 trang.2 Bản dịch sang tiếng Việt của 2 tập này là 15.781 trang, chia thành 8 tập như đã nói trên. Như vậy, trung bình cứ mỗi trang chữ Hán dịch ra tiếng Việt khoảng 7 trang.
07/06/2021(Xem: 13075)
LỜI NÓI ĐẦU Hôm nay là ngày 9 tháng 7 năm 2018, trong mùa An Cư Kiết Hạ của năm Mậu Tuất, Phật lịch 2562 này, tôi bắt đầu đặt bút viết tác phẩm thứ 66 của mình sau hơn 45 năm (1974-2018) cầm bút và sau hơn 42 năm ở tại Âu Châu (1977-2018). Những sách của tôi viết bằng tiếng Việt hay dịch từ các ngôn ngữ khác ra Việt ngữ như: Anh, Đức, Hán, Nhật đều đã được in ấn và xuất bản với số lượng ít nhất là 1.000 quyển và có khi lên đến 2.000 quyển hay 5.000 quyển. Vấn đề là độc giả có nắm bắt được bao nhiêu phần trăm ý chính của kinh văn hay của sách dịch lại là một việc khác. Người viết văn, dịch sách cũng giống như con tằm ăn dâu thì phải nhả tơ, đó là bổn phận, còn dệt nên lụa là gấm vóc là chuyện của con người, chứ không phải của con tằm.
05/06/2021(Xem: 6499)
Sự ra đời của Đức Phật Thích Ca theo Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2565- 2021 có đoạn ghi “Bản nguyện của ngài là gì khi hóa thân đến trần gian này?” Một câu hỏi mang đầy ý nghĩa nhất cần phải khai triển. Sự hóa thân xuống trần này với mục đích mở một kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên cho đến ngày nay chưa từng có của loài người, đó là một kỷ nguyên trí tuệ và từ bi. Trước khi đi sâu vào trí tuệ và từ bi, trước hết ta quán chiếu đầu tiên sự xuất hiện bằng cách hóa thân của ngài xuống trần gian này.
03/06/2021(Xem: 5749)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Thiện hữu & quí vị hảo tâm. Vào ngày Chủ Nhật (May 30) vừa qua, được sự cho phép của chính quyền địa phương làng Rampur Village & Katiya Village Bihar India, nhóm Từ thiện Bodhgaya Heart chúng con, chúng tôi đã tiếp tục hành trình cứu trợ thực phẩm cho dân nghèo mùa Dịch covid. Xin mời chư vị xem qua một vài hình ảnh tường trình.. Buổi phát quà cứu trợ cho 363 căn hộ tại 2 ngôi làng cách Bồ đề Đạo Tràng chừng 14 cây số.
03/06/2021(Xem: 3345)
Nghe vẻ nghe ve, Nghe vè họ nói Chuyện người chuyện sói. Sói nói tiếng người
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]