Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sri Lanka: Trưởng lão Hòa thượng Kotugoda Dhammawasa Thero vừa Viên tịch

30/03/202108:00(Xem: 4966)
Sri Lanka: Trưởng lão Hòa thượng Kotugoda Dhammawasa Thero vừa Viên tịch

Sri Lanka: Trưởng lão Hòa thượng Kotugoda Dhammawasa Thero vừa Viên tịch

 Trưởng lão Hòa thượng Kotugoda Dhammawasa Thero 3

Trưởng lão Hòa thượng Kotugoda Dhammawasa Thero, người đứng đầu tông phái Amarapura Nikàya, Tăng đoàn Mahā Nāyaka Sri Lanka – một trong ba truyền thống Phật giáo Nguyên thủy lớn tại Sri Lanka, phương trượng trụ trì Tu viện Sri Dharmapalaramaya, núi Lavinia, một vùng ngoại ô ở Colombo, đã viên tịch vào lúc 3 giờ sáng hôm thứ Hai, ngày 22 tháng 3 năm 2021 tại một bệnh viện tư nhân ở Colompo, Sri Lanka. Hưởng thọ 88 xuân.

 

Tiểu sử

Trưởng lão Hòa thượng Kotugoda Dhammawasa Thero

(1933-2021)

 

Trưởng lão Hòa thượng Kotugoda Dhammawasa Thero tục danh Sirimevan Rodrigo, sinh vào ngày 23 tháng 1 năm 1933 tại làng Kotugoda, Minuwangoda, Sri Lanka, là con trai út trong một gia đình có bảy anh chị em, năm trai và hai gái. Phụ thân của Ngài là cụ ông Haramanis Rodrigo và Hiền mẫu của Ngài là cụ bà Selestina Rodrigo. Vốn sinh trưởng trong một gia đình nhiều đời theo truyền thống đạo Phật, kính tin Tam bảo. Thuở nhỏ, Ngài được học từ Trường Phật học Kotugoda Rahula Maha Vidyalaya tại làng Kotugoda, Minuwangoda, Sri Lanka.

 

Thuở ấu thơ, Ngài có phúc duyên được gắn bó với ngôi chùa làng và sau đó trở thành đệ tử của Trưởng lão Hòa thượng Unavatune Dhammapala Thera, Trụ trì Tu viện Sri Dharmapalaramaya, núi Lavinia phía nam của Colombo. Ngài được Hòa thượng Bản sư cho thế phát, xuất gia, thụ giới Sa di vào ngày 18 tháng 8 năm 1948 và được ban pháp danh Kotugoda Dhammawasa.

 

Năm 1952, Ngài tu học tại trường Phật học Paramadhammacetiya Pirivena, Ratmalana, vùng ngoại ô thuộc quận Colombo, tỉnh Tây, Sri Lanka và sau đó tu học tại Phật học viện Vidyodaya Maha Pirivena ở Maligakanda, Colombo. Trong suốt cuộc đời tại Phật học viện Vidyodaya Maha Pirivena, Ngài đã nghiên cứu chuyên sâu về Pāli Đại Tạng Kinh và Phạn Văn Đại Tạng Kinh.

 

Năm 1954, Ngài thụ đại giới Tỳ kheo tại Udakkukhepa Seemamalakaya, sông Kalu Ganga, huyện Kalutara, miền tây Sri Lanka. Sau đó, Ngài cộng tác với các vị tôn túc nổi tiếng trong giới Phật học như Hòa thượng Kalukondayave Pannasekara Nayaka Thera, Welivitiye Sorata Nayaka Thera, Walane Sitthissara Thera, Paravahara Vajiranana Nayaka Thera, Narada Thera, Piyadassi Thera, Beruwala Siri Sumangala Sirinivasa Mahanayaka Thera, Ambalangoda Dhammakusala Mahanayaka Thera, Moratuwe Sasanaratana Anunayaka Thera, Moratuwe Pemaratana Thera. . .

 Trưởng lão Hòa thượng Kotugoda Dhammawasa Thero 1

Sau khi xuất gia, thụ giới, tu học tại các Phật học viện, Ngài đã trở thành một tác giả với phong cách phong phú, đa dạng, đã xuất bản hơn 36 cuốn sách về các chủ đề khác nhau liên quan đến Phật giáo, kể từ thập niên 1960 bao gồm: Nivanata Maga, Ketumati Rajadhaniya, Kosala Raju Dutu Sihina, Dhammo Have Rakkhati Dhammacari. Ngài đã thành lập Hiệp hội Bauddhodaya tại Sri Dharmapalaramaya, núi Lavinia phía nam của Colombo để thúc đẩy phong trào xóa nạn mù chữ. Sau đó, Ngài bắt đầu xuất bản “Vesak thường niên”.

 

Ngài đã từng đảm trách nhiều chức vụ khác nhau trong tông phái Amarapura Nikàya, Tăng đoàn Mahā Nāyaka Sri Lanka, bao gồm:

 

Năm 1970, Ngài được bổ nhiệm thành viên Ủy ban Công tác Phật sự, Giáo phẩm Danh dự (Maha Nayaka). Năm 1981, Trưởng ban Tăng sự Giáo hội Nakaya. Năm 1990, Phó trưởng ban (Anunayaka) của Amarapura Nikaya và Thư ký Amarapura (Sama Lekhakadhikari). Năm 1980, Thư ký Amarapura (Sama Lekhakadhikari). Năm 1992, Tổng Thư ký (Maha Lekhakadhikari). Ngài là đã trở thành nhân vật tiên phong đạt được thành tựu Sanghadhikarana Panatha đã được soạn thảo và thông qua (Đạo luật Tôn giáo, Ecclesiastical Act).

 

Ngày 3 tháng 10 năm 2008, Ngài được suy tôn ngôi vị Chủ tịch tông phái Amarapura Nikaya, Phật giáo Sri Lanka. Trong khi đó, Ngài dành thời gian cho việc hoằng dương chính pháp Phật đà ở nước ngoài, cả châu Á và phương Tây, như các quốc gia Ấn Độ, Nepal, Trung Quốc, Nhật Bản, Myanmar, Bhutan, Đức, Vương quốc Anh và Mỹ.

 

Vào ngày 2 tháng 3 năm 2007, tại Hội trường Swarnaguha, Myanmar, Ngài được Chính phủ Myanmar phong tặng danh hiệu "Aggamahapandita".

 

Vào ngày 17 tháng 12 năm 2016, Ngài được suy tôn ngôi vị Hội đồng Trưởng lão Tăng Đoàn Maha Nayaka, tông phái Amarapura Nikaya.

 

Vào ngày 26 tháng 5 năm 2017, Ngài được suy tôn ngôi vị Tăng thống tông phái Amarapura Nikaya, Phật giáo Sri Lanka.

 

Ta bà quả mãn, hóa duyên ký tất, thuận thế vô thường, Ngài thanh thản trút hơi thở, an nhiên viên tịch vào lúc 3 giờ sáng hôm thứ Hai, ngày 22 tháng 3 năm 2021 tại một bệnh viện tư nhân ở Colompo, Sri Lanka. Hưởng thọ 88 xuân.

 

Thuở sinh tiền, Trưởng lão Hòa thượng Kotugoda Dhammawasa Thero được ghi nhận suốt thời gian hơn 50 năm, là người xuất sắc trong việc tuyên dương diệu pháp Như Lai trên đài phát thanh quốc gia Sri Lanka.

 

Các bài thuyết pháp của Ngài, đã được sự hâm mộ đông đảo khán thính giả hải ngoại như Ấn Độ, Nepal, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Mỹ, Nga, Singapore, Myanmar, Thái Lan, Pakistan và Mông Cổ. Ngài rất có công trong việc hồi sinh những ngôi già lam cổ tự đổ nát ở Myanmar và Nepal.

 

Trưởng lão Hòa thượng Kotugoda Dhammawasa Thero là một tác giả, nhiều tác phẩm phong phú đa dạng, đã xuất bản hơn 36 cuốn sách về các chủ đề khác nhau liên quan đến Phật giáo kể từ sau nửa thế kỷ 20, thập niên 1960.

 

Các tác phẩm của Ngài đã tạo được sự hấp dẫn lớn đối với độc giả bởi văn phong phóng khoáng cởi mở, khiến người đọc cảm thấy tâm thanh thản hồn nhiên. Ngài sử dụng một ngôn ngữ trong sáng, trích dẫn các sự kiện và hiểu biết được rút ra từ các thánh điển Phật giáo, được tôn kính như Tam Tạng và Sách Jataka.

 Trưởng lão Hòa thượng Kotugoda Dhammawasa Thero 2

Lip video

 

Most Ven Kotugoda Dhammawasa Thero | 2018-07-31

https://www.youtube.com/watch?v=z5GkyG_-XH0

 

President calls on Most Ven. Kotugoda Dhammawasa Nayaka Thero (English)

https://www.youtube.com/watch?v=Un8_gsFBcKk

 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: Sri Lanka News: ColomboPage)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/01/2011(Xem: 8130)
Ý thức về dòng họ là nét văn hóa tiêu biểu của người phương Đông, ở phương Đông khi nhắc đến một nhân vật, một vĩ nhân hay một người bình thường điều đầu tiên mọi người hỏi đến là tên gì họ gì. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng vậy, khi ứng thân trên cuộc đời này ngài cũng là con cháuthuộc dòng họ Thích Ca ở Ấn Độ.
12/01/2011(Xem: 8155)
Trong thời gian giáo lý của đức Phật đươ.c truyền bá khắp nơi trên Á Châu và thế giới, có nhiều trường phái với nhiều lối giải thích về Phật pháp khác nhau đươ.c sinh lên. Mỗi trường phái chú trọng vào một điểm riêng, có một hệ thống thần học riêng và những phương tiện khéo léo riêng biệt. Mặc dù các truyền thống khác nhau ấy có thể không đồng ý về một số điểm trong giáo lý đức Phật, nhưng có một công thức giáo pháp chung mà bao giờ cũng vẫn là trọng tâm của mọi truyền thống, đó là : Tứ Diệu Đế hay là Bốn Sự Thật Mầu Nhiệm.
11/01/2011(Xem: 13054)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
09/01/2011(Xem: 11583)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
09/01/2011(Xem: 7510)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
06/01/2011(Xem: 9463)
Cũng trên đường Bolsa, nơi cù lao phân chia đại lộ thành hai chiều xe qua lại, người ta trồng một số cây cảnh và sắp một vài tảng đá tạo thành một hòn giả sơn nho nhỏ. Ngay chỗ đó, khách qua lại vẫn thường trông thấy một nhà sư ôm bình bát đứng yên. Đầu đội trời, chân đạp đất. Trời nắng chang chang những ngày vào hạ. Trong các văn phòng, và trên xe, mọi người đều mở máy lạnh. Riêng một nhà sư tuổi trẻ, trang nghiêm đứng ôm bình bát, mắt nhắm lim dim, dáng thẳng, bất động, như một pho tượng.
06/01/2011(Xem: 15885)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
06/01/2011(Xem: 9554)
Nhiều chuyên gia Âu Mỹ cho rằng: Phật tử cũng như người Ấn Độ rất hiền hậu, không thích gây hấn, và rất dễ chung sống hòa bình với người khác. Nhìn Đạo Phật, thấy luôn, đó là những người mang tính hòa giải rất cao. Phật tử không chỉ hòa giải với người khác mà họ còn hòa giải với từng con vật bé nhỏ. Họ không sát sinh, như thể sợ rằng, mình ăn thịt chúng, rồi không thoát được kiếp luân hồi sinh tử, đến một ngày nào lại phải trở thành một con vật nào đó, để cho con vật đã từng bị mình ăn thịt ăn lại.
06/01/2011(Xem: 6961)
Hầu như mọi nỗ lực của con người đều nhắm vào mục đích tìm kiếm một đời sống hạnh phúc. Nhưng thử hỏi mấy ai đã thành công trong mưu cầu tạo dựng một nền hạnh phúc đích thực. Nhiều người càng cố gắng truy tìm hạnh phúc thì nó càng trở nên xa vời đối với họ, trong khi nhiều người khác đã nắm sẵn hạnh phúc trong tay nhưng lại thả mồi bắt bóng để rồi cuối cùng hạnh phúc cũng vuột khỏi tầm tay.
05/01/2011(Xem: 6673)
Từ bi hỷ xả, nhẫn nhịn thường là bí quyết để giúp cho mọi người sống như chiếc lá, dù có bị bão tố phong ba cuốn trôi lặn hụp, nhưng ta vẫn đủ sức vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời mà sống an nhiên tự tại trong mỗi hoàn cảnh. Có một chàng trai nọ trong lúc đau khổ mới tìm đến một vị thiền sư hỏi rằng: "Thưa sư phụ, có những lúc con cảm thấy cuộc sống và mọi người muốn nhận chìm con, vậy khi đối diện như thế con phải làm gì ạ?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]