Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thơ Thiền Sư Phổ Minh Tụng Tranh Chăn Trâu

20/02/202120:39(Xem: 6630)
Thơ Thiền Sư Phổ Minh Tụng Tranh Chăn Trâu

THƠ THIỀN SƯ PHỔ MINH

TỤNG TRANH CHĂN TRÂU

 

 

Tâm Minh Ngô Tằng Giao

(Chuyển dịch thơ Tứ tuyệt & Lục bát)

 Thập Mục Ngưu Đồ

     Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây:

 

          1. Vị mục: chưa chăn

          2. Sơ điều: mới chăn

          3. Thọ chế: chịu phép

          4. Hồi thủ: quay đầu

          5. Tuần phục: thuần phục

          6. Vô ngại: không vướng

          7. Nhiệm vận: theo phận

          8. Tương vong: cùng quên

          9. Độc chiếu: soi riêng

         10. Song mẫn: cùng vắng

 

     Ngài Chu Hoằng ghi lời tựa: “Phổ Minh chưa biết rõ người ở đâu? Tranh và tụng cũng chưa rõ do tay một người chăng? Nay miễn bàn. Chỉ là tranh ấy hình ảnh hiển bày mà ý thú rất sâu sắc. Bài tụng thì lời gần mà ý chỉ thì rất xa. Người học giữ ở bên mình làm bản đồ để xem xét đức nghiệp của mình. Cúi xuống, xét chỗ mình đã tiến, ngước lên mong chỗ mình chưa đến, mới mong tránh khỏi cái lỗi được ít cho là đủ, mà phải rơi vào tăng thượng mạn. Như thế sẽ giúp ích rất nhiều.” 

 

     Soạn giả sau khi ghi bản dịch âm mười bài thơ này đã dịch thành mười bài thơ “tứ tuyệt”. Kế đó lại chuyển dịch thành mười bài thơ “lục bát” liên hoàn.

 Thien-su-Pho-Minh

*

 

 

 

 

 

1. VỊ MỤC

Tranh nanh đầu giác tứ bào hao,

Bôn tẩu khê sơn lộ chuyển diêu.

Nhất phiến hắc vân hoành cốc khẩu,

Thùy tri bộ bộ phạm giai miêu.

 

1. CHƯA CHĂN

Đầu sừng hung tợn chạy kêu la

Vượt suối trèo non vạn dặm xa

Một dải mây đen giăng cửa động

Nào hay lúa mạ giẫm bừa qua.

 

(CHƯA CHĂN: Trâu đầu sừng hung tợn mặc tình chạy kêu rống. Nó chạy ngược chạy xuôi qua khe suối, qua núi non, càng chạy càng xa. Một dải mây đen giăng chận ngang cửa hang động. Ai biết mỗi bước đều phạm vào lúa mạ của người.)

 

1. CHƯA CHĂN

Đầu sừng hung tợn chạy la

Trèo non vượt suối dặm xa ngút ngàn

Mây đen cửa động giăng ngang

Nào hay lúa mạ giẫm tan nát rồi.

 

 

 

 

 

調

穿

調

 

2. SƠ ĐIỀU

Ngã hữu mang thằng mạch tị xuyên,

Nhất hồi bôn cạnh thống gia tiên.

Tùng lai liệt tính nan điều chế,

Do đắc sơn đồng tận lực khiên.

 

2. MỚI CHĂN

Ta có thừng gai xỏ mũi trâu

Một phen tháo chạy bị roi đau

Vốn xưa tính xấu dạy không dễ

Nhờ trẻ chăn trâu kéo lại mau.

 

(MỚI CHĂN: Ta có dây thừng bằng gai xỏ qua lỗ mũi của trâu. Một phen trâu tháo chạy bị đánh một roi thật đau. Vốn từ xưa tới nay tính trâu kém cỏi thấp hèn, khó điều phục. Vẫn nhờ được trẻ chăn trâu hết sức lôi kéo ghì trâu lại.)

 

 

2. MỚI CHĂN

Thừng gai xỏ mũi trâu lôi

Mỗi khi tháo chạy bị roi quất vào

Dạy trâu tính xấu dễ đâu

Trẻ chăn trâu phải mau mau kéo về.

 

 

 

調

穿

 

3. THỌ CHẾ

Tiệm điều tiệm phục tức bôn trì

Độ thủy xuyên vân bộ bộ tùy

Thủ bả mang thằng vô thiểu hoãn

Mục đồng chung nhật tự vong bì.

 

3. CHỊU PHÉP

Dạy dần, chịu phép hết lao đầu

Vượt nước, băng mây theo gót nhau

Tay nắm chặt dây không nới lỏng

Trẻ quên ngày mỏi mệt qua mau.

 

 

(CHỊU PHÉP: Được điều phục dần dần trâu bớt chạy dong. Vượt qua nước, băng qua mây, mỗi bước trâu đều đi theo gót trẻ chăn trâu. Trẻ tay nắm chặt dây gai không chút lơi lỏng. Trẻ chăn trâu suốt cả một ngày tự quên hết mệt nhọc.)

 

 

3. CHỊU PHÉP

Dạy dần, chịu phép, yên bề

Băng mây vượt nước trâu kề theo ngay

Trẻ tay vẫn nắm chặt dây

Người tuy mỏi mệt quên ngày qua mau.

 

調

 

4. HỒI THỦ

Nhật cửu công thâm thủy chuyển đầu,

Điên cuồng tâm lực tiệm điều nhu.

Sơn đồng vị khẳng toàn tương hứa,

Do bả mang thằng thả hệ lưu.

 

4. QUAY ĐẦU

Lâu ngày công khó mới quay đầu

Tâm lực cuồng điên thuần dịu mau

Trẻ vẫn chưa hề ưng hẳn vậy

Nên thừng giữ chặt có buông đâu.

 

 

(QUAY ĐẦU: Trẻ chăn trâu tốn công chăn giữ lâu ngày trâu mới quay đầu. Tâm điên loạn, sức ngang ngạnh ngông cuồng của trâu đã dần dần được điều phục thuần lại. Trẻ chăn trâu vẫn chưa hoàn toàn bằng lòng như vậy. Vẩn nắm chặt dây thừng gai buộc giữ trâu lại.)

 

 

 

4. QUAY ĐẦU

Tốn công trâu mới quay đầu

Đã thuần, tâm lực còn đâu điên cuồng

Trẻ chưa ưng hẳn mọi đường

Nên tay giữ chặt dây thừng chẳng buông.

 

 

5. TUẦN PHỤC

Lục dương âm hạ cổ khê biên,

Phóng khứ thu lai đắc tự nhiên.

Nhật mộ bích vân phương thảo địa,

Mục đồng quy khứ bất tu khiên.

 

5. THUẦN PHỤC

Dưới bóng liễu xanh cạnh suối nguồn

Thả ra, bắt lại dễ dàng luôn

Mây xanh, chiều tới, đồng thơm cỏ

Trẻ trở về ngay chẳng bận chăn.

 

 

(THUẦN PHỤC: Trẻ chăn trâu đứng chơi dưới bóng mát cây dương liễu xanh cạnh bên bờ suối xưa. Trâu được thả ra hay bị bắt lại vẫn tự nhiên dễ dàng. Trời về chiều có mây xanh và đồng cỏ thơm. Trẻ chăn trâu trở về lại ngay không cần chăn dắt lôi kéo gì trâu nữa).

 

 

5. THUẦN PHỤC

Duới cây liễu, cạnh suối nguồn

Thả ra, bắt lại trâu luôn dễ dàng

Cỏ thơm, mây biếc, chiều vàng

Trở về trẻ chẳng bận chăn nữa rồi.

 

 

 

6. VÔ NGẠI

Lộ địa an miên ý tự như,

Bất lao tiên sách vĩnh vô câu.

Sơn đồng ổn tọa thanh tùng hạ,

Nhất khúc thăng bình lạc hữu dư.

 

6. KHÔNG VƯỚNG

Ngoài trời yên giấc thảnh thơi lòng

Roi vọt không cần, chẳng nhọc công

Trẻ dưới thông xanh ngồi thoải mái

Quá vui trổi khúc nhạc vang đồng.

 

 

(KHÔNG VƯỚNG: Trâu bình thản nằm ngủ yên trên đất trống. Không còn bị dây roi câu thúc kiềm chế nữa. Trẻ chăn trâu ngồi yên ổn dưới cội tùng xanh. Trổi lên một khúc nhạc thanh bình rất vui vẻ.)

 

 

6. KHÔNG VƯỚNG

Ngoài trời yên giấc thảnh thơi

Không cần roi vọt, qua thời nhọc công

Trẻ ngồi thoải mái dưới thông

Quá vui, trổi nhạc vang đồng hoan ca.

 

 

 

7. NHIỆM VẬN

Liễu ngạn xuân ba tịch chiếu trung,

Đạm yên phương thảo lục nhung nhung.

Cơ xan khát ẩm tùy thời quá,

Thạch thượng sơn đồng thụy chánh nùng.

 

7. THEO PHẬN

Chiều rạng sóng xuân bờ liễu buông

Khói mờ, cỏ nõn biếc thơm hương

Đói ăn, khát uống lòng tùy tiện

Trên đá trẻ chăn ngủ giấc nồng.

 

 

(THEO PHẬN: Bên bờ liễu sóng xuân phản chiếu ánh sáng. Khói mờ cỏ thơm màu xanh non. Trẻ chăn trâu khi đói thì ăn, khi khát thì uống theo với thời gian trôi qua đi. Trên bàn đá trẻ ngủ một giấc say sưa.)

 

 

7. THEO PHẬN

Chiều xuân bờ liễu thướt tha

Khói mờ, cỏ nõn mượt mà thơm hương

Đói ăn, khát uống mặc lòng

Trẻ chăn trên đá giấc nồng ngủ say.

 

西

 

8. TƯƠNG VONG

Bạch ngưu thường tại bạch vân trung,

Nhân tự vô tâm ngưu diệc đồng.

Nguyệt thấu bạch vân vân ảnh bạch,

Bạch vân minh nguyệt nhiệm Tây Đông.

 

8. CÙNG QUÊN

Trâu trắng thường nơi mây trắng trong

Vô tâm người với trâu tương đồng

Trăng xuyên mây trắng, mây phô trắng

Mây trắng trăng trong Tây tới Đông.

 

 

(CÙNG QUÊN: Trâu trắng thường ở trong mây trắng. Người tự vô tâm, trâu cũng vô tâm giống như thế. Trăng rọi suốt mây trắng nên bóng mây cũng trắng. Mây trắng trăng sáng mặc tình qua Tây hay qua Đông.)

 

 

8. CÙNG QUÊN

Bóng trâu trắng giữa mây bay

Vô tâm người với trâu nay tương đồng

Trăng xuyên mây trắng bềnh bồng

Trăng trong, mây trắng Tây Đông xoay vần.

 

 

 

 

9. ĐỘC CHIẾU

Ngưu nhi vô xứ mục đồng nhàn,

Nhất phiến cô vân bích chướng gian.

Phách thủ cao ca minh nguyệt hạ,

Quy lai do hữu nhất trùng quan.

 

9. SOI RIÊNG

Vắng bóng trâu kia khiến trẻ nhàn

Một vầng mây lẻ chắn không gian

Vỗ tay ca hát cùng trăng sáng

Về lại vẫn còn một ải ngăn.

 

 

(SOI RIÊNG: Trâu không còn ở chỗ nào nữa, trẻ chăn trâu thảnh thơi nhàn rỗi. Một vầng mây đơn lẻ che khoảng trời xanh. Trẻ chăn trâu vỗ tay ca hát lớn tiếng dưới trăng sáng. Quay trở về lại vẫn còn có một lớp cửa ải nữa ngăn chặn.)

 

 

9. SOI RIÊNG

Vắng trâu khiến trẻ được nhàn

Một vầng mây lẻ giăng ngàn non xanh

Vỗ tay ca với trăng thanh

Đường về còn một ải ngăn bít bùng.

 

 

 

 

10. SONG MẪN

Nhân ngưu bất kiến yểu vô tung,

Minh nguyệt quang hàn vạn tượng không.

Nhược vấn kỳ trung đoan đích ý,

Dã hoa phương thảo tự tùng tùng.

 

10. CÙNG VẮNG

Không thấy người, trâu, bóng mịt mùng

Dưới trăng muôn vật bỗng thành không

Ý tình đích thực ai thăm hỏi

Hoa dại, cỏ thơm mọc khắp đồng.

 

 

(CÙNG VẮNG: Người và trâu không thấy đâu, mờ mịt không dấu vết. Trăng sáng lạnh lẽo, không còn một hình tượng nào. Nếu hỏi ý chính trong đó là gì. Hoa đồng, cỏ thơm tự mọc rậm rạp.)

 

 

10. CÙNG VẮNG

Người, trâu vắng bóng mịt mùng

Dưới trăng muôn vật thành không bóng hình

Hỏi thăm đích thực ý tình

Cỏ thơm, hoa dại mọc quanh khắp đồng.

           

***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/01/2017(Xem: 11821)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thường cũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
07/01/2017(Xem: 12356)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thường cũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
06/01/2017(Xem: 10737)
Phật giáo Tây Tạng hay Kim Cương Thừa nói chung rất thực tế và cụ thể, giúp người tu tập trực tiếp biến cải tâm thức mình và đạt được giác ngộ. Dưới đây là một bài giảng ngắn của Đức Đạt-lai Lạt-ma về một trong các phép luyện tập thiền định chủ yếu và thiết thực của Phật giáo Tây Tạng, là "Phép thiền định gồm bảy điểm" do Atisha (A-đề-sa) đề xướng.
06/01/2017(Xem: 8278)
Đây là một câu chuyện có thật trong lịch sử. Tại một trường trung học ở Mỹ, có một lớp học nọ với 26 em học sinh cá biệt. Những em học sinh trong lớp học này đều có tiểu sử không mấy hay ho: em từng tiêm chích ma túy, em từng vào trại cải tạo, thậm chí có một học sinh nữ mà trong một năm đã phá thai tới 3 lần.
03/01/2017(Xem: 9789)
Trong quá trình học tập và nghiên cứu Phật điển Hán tạng, chúng tôi nhận thấy việc ghi nhớ các từ ngữ Phật học là điều không dễ, bởi số lượng từ ngữ Phật học rất nhiều, Phật Quang Đại Từ Điển tổng cộng có 22608 mục từ. Nếu đi vào cụ thể từng tông phái thì số lượng mục từ đó vẫn còn chưa đủ, chỉ xét riêng tông Duy Thức đã có hơn 15.000 từ ngữ; Thiền tông có hơn 8.000 mục từ…nếu không tuần tự đi từ thấp đến cao, từ cạn đến sâu người học sẽ ngập mình trong khối từ ngữ Phật học.
28/12/2016(Xem: 12376)
Chùa chiền là chốn Thiền môn thanh tịnh, là ngôi nhà giáo pháp che chở cũng như nuôi lớn tình thương, khơi nguồn trí tuệ và giúp chúng ta giải phóng những nỗi khổ niềm đau trong cuộc đời. Vì thế, người Phật tử tại gia, khi tới chùa không nên làm những điều sau:
27/12/2016(Xem: 6808)
Tôi đi công tác Đà Nẵng. Sau khi Đường Sách Nguyễn văn Bình đi vào hoạt động ổn định từ một năm nay và sau khi lễ khở công Phố Sách Hà Nội đã diễn ra tốt đẹp ngày 19 tháng 12 tại ngay phố 19 tháng 12 để rồi theo kế hoạch, đúng Ngày Sách Việt nam 21/04/2017 sẽ khánh thành, tôi quyết định vào Đà Nẵng để gặp và bàn bạc với lãnh đạo thành phố đáng sống nhất Việt Nam để bàn về Phố Sách nơi đây.
27/12/2016(Xem: 11353)
Hôm nay, ngày 10 tháng 03 năm Ất Hợi, tức là ngày 09 tháng 04 năm 1995, đại chúng đã có duyên về nơi núi Thúy Vân này. Nơi đây có Bảo tháp, có chùa Thánh Duyên. Ngôi chùa Thánh Duyên là tên do vua Minh Mạng sắc phong. Trong bia ký, vua Minh Mạng có ghi rằng: “Phật tức là Thánh, Thánh tức là Phật.
25/12/2016(Xem: 12235)
Tôi tình cờ có được cuốn sách “Nhân tố Enzyme – phương thức sống lành mạnh” của tác giả Hiromi Shinya một cách tình cờ. Tôi đọc ngấu nghiến một mạch hết cuốn sách bởi được dịch giả Như Nữ khuyên rằng tôi rất nên đọc. Phải nói thật rằng, vốn là con mọt sách, mê đọc sách vô cùng, nhưng đã lâu lắm rồi tôi mới đọc được 1 cuốn sách thú vị và bổ ích đến thế. Cá nhân tôi rất ấn tượng với tít phụ trên bìa sách rằng đây là phương thức sống lành mạnh và lời nói đầu đặt ra vấn đề, rằng bạn có thể sống lâu mà không bệnh tật của chính tác giả.
25/12/2016(Xem: 9580)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo. Ngài đã thuyết giảng bài Kinh này cho 5 người bạn đồng tu khổ hạnh với Ngài trước kia là Kondanna (người Trung Hoa phiên âm là Kiều Trần Như), Bhaddiya, Vappa, Mahanama, Asaji tại vườn Lộc Uyển (Deer Park). Bài thuyết Pháp này được ghi lại trong Bộ Kinh Tương Ưng (Samyutta Nikaya) quyển V (Pali edition, p.420).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]