Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiếng Chuông Chùa

16/02/202119:31(Xem: 4611)
Tiếng Chuông Chùa
 TIẾNG  CHUÔNG  CHÙA
 Quang Kính Võ Đình Ngoạn          

 Tieng-chuong-chua

Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ.  Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN  ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?  Người Ấn Độ từ thời xa xưa đã biết dùng trống để cảnh báo sự việc xảy ra, báo thời gian. Lúc Phật còn tại thế, ngài đã dùng trống tập họp tăng chúng đến nghe pháp. Trường hợp của mõ cũng không khá gì hơn, các sử liệu ghi chép không rõ, thường thường chỉ dựa vào các truyền thuyết, có hai loại mõ. Loại mõ khắc hình cá dài nay chỉ còn thấy dùng trong các chùa cổ ở Trung Hoa, được treo ở nhà kho hoặc nhà ăn để báo giờ thọ trai cho các tăng, ni. Loại mõ khắc hình cá cuộn tròn được dùng trong các chùa Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Triều Tiên. Trong sách Tam Tài Đồ Hội của Vương Tích đời nhà Minh có đoạn” Mõ là loại mà dùng cây khắc thành hình con cá, rỗng bên trong, gõ nó phát ra tiếng, các hàng Phật tử khi tán tụng đều dùng đến nó ” điều nầy chứng tỏ mõ khắc hình cá cuộn tròn được đưa vào các chùa chiền nếu chậm nhất cũng phải vào đời nhà Minh ( 1368 -1644 ).

 

Với kiến thức nông cạn tôi không có tham vọng khảo cứu về chuông, trống, mõ. Vả lại, chủ đích bài viết nầy chỉ muốn trình bày khái quát công dụng chuông, trống, mõ trong chùa, trong sinh hoạt dân gian, trong chuyện cổ tích, trong văn chương, thi, phú...

 

Tiếng chuông, tiếng trống và mõ trong các chùa chiền không giống như tiếng chiêng, tiếng trống thúc quân ra trận, cũng không giống như tiếng trống trong câu chuyện Chinh Phụ Ngâm, “ Trống Trường thành lung lay bóng nguyệt…,” đã khiến người chinh phụ thốt nên lời oán trách trời xanh.                       

 

Nó cũng không giống như tiếng trống “  lệnh vua tòng quân, trống vang rền  quan với quân lên đường…”. trong bài hát Hòn Vọng Phu ( nhạc sĩ Lê Thương )  khiến nàng Tô Thị qua bao năm tháng ôm con trông đợi ngày về của chồng đã biến thành tượng đá. Nó cũng không giống như tiếng trống dùng trong pháp trường xử chém Cao Bá Quát, “ Ba hồi trống giục mồ cha chết. Một nhát gươm đưa bỏ mẹ đời.”

 

Tiếng chuông, tiếng trống chiến trường khi gióng lên làm cho tâm tư con người bồi hồi lo sợ, nó như tiếng gào thét của tử thần từ cõi âm vọng về hay tiếng thúc dục khiến con người như say men thuốc phiện. Họ lăn xả vào tàn sát lẫn nhau. Ngược lại tiếng trống, tiếng chuông, mõ trong các tự viện, chùa chiền làm cho tâm tư con người được thư thái, nhẹ nhỏm không lo âu sợ sệt; bởi vì khi tiếng chuông đánh lên có năng lực làm thức tỉnh, đánh động tâm linh, do đó chuông trống lớn còn được gọi là chuông trống bát-nhã. Tương truyền Hoà thượng Chí Công khởi xướng việc đúc đại hồng chung để dùng trong các tự viện và vua Lương Võ Đế đã dùng trong nghi lễ cầu nguyện cho các thần thức bị đọa trong chốn địa ngục, do đó chuông lớn còn được gọi là chuông U minh.

 

Chuông, trống, mõ dùng trong nghi lễ Phật giáo là những pháp khí, nhạc khí, những vật dụng trợ duyên rất đắc lực cho các hành giả trên con đường tu học, cho các bậc tu sỉ trong công việc hoằng dương giáo pháp Phật-đà.

 

Trong nghi thức tụng niệm của Phật giáo, nếu chúng ta để ý quan sát, chúng ta sẽ thấy các người đang hành lễ như đang biểu diễn một màn nhạc, vị chủ lễ thường là các thầy hoặc các cô, đôi khi là cư sĩ khi buổi lễ do các nhóm đạo tràng thực hiện, các huynh trưởng đối với Gia Đình Phật Tử, những vị nầy giống như các nhạc trưởng, có nhiệm vụ điều khiển dàn nhạc, toàn thể đại chúng phía dưới nhất nhất theo lệnh của vị chủ lễ và người thủ chuông………. Nếu đại chúng đều làm đúng theo nghi thức qui định, theo tôi nghĩ chúng ta cảm nhận những Phật tử đó như đang biểu diễn màn hoà tấu; không những thế  nó còn giống như một điệu vũ tập thể.

 

Nói đến nền văn minh, văn hóa Việt Nam, theo thiển ý chắc không ít độc giả cũng đồng quan điểm với tôi là nó mang đậm dấu ấn Phật giáo. Lịch sử  nước ta trải qua 4000 năm văn hiến, trong đó nền văn hóa Phật giáo đã hình thành và phát triển khoảng hơn 2000 năm. Với thời gian dài như thế, giáo lý của Đức Phật đã ăn sâu, bám rễ và luân lưu trong dòng máu của từng người dân Việt, tạo, nên một nền tảng luân lý đạo đức chi phối mọi sinh hoạt xã hội. Trong lãnh vực văn chương, chuyện cổ tích dân gian cũng không thoát khỏi ảnh hưởng đó. Tư tưởng Phật giáo ảnh hưởng sâu đậm cho đến nỗi có những thi sĩ không phải là Phật tử cũng thốt lên những ngôn từ rất Phật giáo.

 

Thi sĩ Hàn Mạc Tử, một tín đồ Ki-Tô giáo đã thốt lên câu:

         

          Thơ tôi hương huyền diệu

          Mọc lên đạo từ bi

Theo tôi nghĩ Đạo Từ Bi đó là ngôn từ Phật giáo vì đối với Ki tô giáo thường dùng ngôn từ Bác ái. Ngay trong bài “Ave Maria” ca tụng bà Maria ông cũng có những ngôn từ rất đạo Phật:                           

 

          Tôi ưa nhìn Bắc đẩu rạng bình minh                            

          Chiếu cùng hết khắp ba ngàn thế giới

 

 Đối với  thi sĩ  Huy Cận trong bài  thơ Trình Bày cũng không thoát khỏi ngôn từ đạo Bụt:

            Mặt trời đẹp, sắc đời đua nở thắm

            Tôi đã đành mang nặng nghiệp yêu đương

 

Hoặc:  Hỡi Thượng Đế tôi cúi đầu trả lại

            Linh hồn tôi đà một kiếp đi hoang

 

Một số thi nhân không ở trong Phật giáo mà có những vần thơ như thế đủ chứng tỏ văn hóa Phật giáo đã là nền tảng vững chắc tạo dựng nên nền văn hóa dân tộc. Ai là người dân Việt không ít thì nhiều cũng bị ảnh hưởng. Trong nền văn hóa đó, tiếng chuông chùa đã gợi nhiều nguồn cảm hứng cho các văn, thi, nhạc sĩ. Tiếng chuông trong câu chuyện Hồn Bướm Mơ Tiên của nhà văn Khái Hưng gợi cho chúng ta cảm giác thiền vị. Tâm thiền đã hòa đồng với cảnh đẹp của thiên nhiên, ngay cả cỏ cây cũng cảm nhận được lời dạy của đức Như Lai, tâm và cảnh như trở thành một bản thể.

 

Trong làn không khí yên tĩnh êm đềm, tiếng chuông thong thả ngân nga như đem mùi thiền làm tăng vẻ đẹp cảnh thiên nhiên, lá cây rung động, ngọn khói thướt tha, bông lúa sột soạt như cảm tiếng gọi của Mâu-Ni muốn theo về nơi hư không tịch mịch… “

 

Tiếng Chuông Giao Thừa đó là một truyện ngắn trong tập truyện Tình Người của ôn Nhất Hạnh được sáng tác khi ôn còn là một chú điệu có đề cập đến tiếng chuông chùa trong đêm trừ tịch. Đoạn văn ấy gợi lên hình ảnh mọi người hân hoan chờ đợi giây phút thiêng liêng tống cựu nghênh tân,  rước ông bà tổ tiên về chung vui ba ngày tết với mình, nhà nhà đều lên đèn, cửa mở rộng, ánh sáng chiếu qua các khung cửa xua đi vẻ âm u, đen tối của đêm  ba mươi. Chuông vẫn khoan thai ngân vang  từng tiếng khiến mọi vật đều trở nên ấm cúng lạ thường.

 

Boong, boong... Bốn phía thấp thoáng những ngọn đèn của xóm làng trở dậy cúng giao thừa. Có lẽ cửa nhà nào cũng mở rộng. Núi đồi mất hẳn vẻ hoang dại, trở nên hiền lành. Tiếng đại hồng chung oai nghiêm và ấm áp đã xua đuổi những bóng hình sợ hãi và đánh tan u tịch. Đại hồng chung vẫn khoan thai điểm từng tiếng rành rọt. Âm thanh ngân dài, ấm áp và thuần hậu...”( Lá Bối Sàigòn 1964 tái bản lần thứ tư,  San Jose 1989 )

 

Một thi sĩ khác nghe tiếng chuông chùa đã liên tưởng đến những tiếng chuông khi xưa, có lẽ lúc còn bé hằng năm tung tăng nắm tay mẹ lên chùa lễ Phật. Thời gian xưa củ lại hiện về trong ký ức, thi nhân cảm thấy mình bé nhỏ như năm tháng ngày nào.

 

         Hằng năm tôi đi lễ chùa

         Chuông vàng khánh bạc ngày xưa vẫn còn

         Chân đi đếm tiếng chuông chùa

         Tôi ngỡ năm  tháng ngày xưa trở về

 

Đối với thi sĩ Trúc Điệp nghe tiếng chuông chùa như lời cảnh tỉnh chúng sinh đừng nên đam mê dục vọng, hãy xa lìa tham, sân, si  để thân tâm được thanh tịnh:

 

        Chuông cảnh tỉnh vang lên lời kể lễ

        Như khuyên lơn an ủi vạn linh hồn

       Khắp trần gian mà vọng lại cô thôn

       Cho tất cả một cái gì linh động

 

Trong bài thơ Chùa Hương, thi nhân Chu Mạnh Trinh cảm nhận như  đang ở cảnh niết-bàn hạ giới, nào là muôn chim đang dâng hoa, cúng trái, nào từng đàn cá đang lắng nghe câu kinh tiếng kệ, tiếng chuông vang lên làm tỉnh mộng khách hồng trần khiến hành giả trở về với cái tâm an lạc:

 

         Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái

         Lửng lơ khe Yến cá nghe kinh

        Thoảng bên tai một tiếng chày kình

        Khách tang hải giựt mình trong giấc mộng

 

Tổ tiên chúng ta có câu : Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng, câu này nói lên tầm quan trọng của việc chọn bạn mà chơi,  chọn nơi mà ở. Khi xưa mẹ thầy Mạnh tử phải dời chỗ ở 3 lần là vậy,  tục ngữ ta cũng có câu gần chùa gọi Bụt bằng cha hoặc gần chùa gọi Bụt bằng anh do đó những người dân sống chung quanh chùa nghe những hồi chuông công phu sớm tối, nghe những câu kinh tiếng kệ không ít thì nhiều cũng ảnh hưởng đến đời sống tâm linh của mình cũng gắng lo tu học hạnh lành, đi chùa lễ Phật vào những tối rằm, mùng một hoặc mười bốn, ba mươi. Những dòng thơ của hòa thượng Mãn Giác gợi lên hình ảnh đó

           -------------------

          Đây ngôi chùa cổ ngày hai buổi

          Cầu nguyện dân làng sống mến yêu

       

         Vì vậy làng tôi sống thái bình

         Sớm khuya gần gũi tiếng chuông linh

         Sắn khoai gạo bắp nuôi thôn xóm

        Xây dựng tương lai xứ sở mình

 

        Tối đến dân quê đón gió lành

        Khắp chùa dào dạt ánh trăng thanh

        Tiếng chuông thức tỉnh lan xa mãi

        An ủi dân lành mọi mái tranh

 

        Trầm đốt hương thơm bay ngạt ngào

        Thôn trên xóm dưới dạ nao nao

        Dân làng tắm gọi lên chùa lễ

       Mười bốn, ba mươi mỗi tối nào

       --------------

 

Mùa thu, mùa của lá vàng, mặt nước hồ thu trong veo không gợn sóng, thỉnh thoảng có làn gió thu hiu hiu thổi. Thắng hội Vu-Lan cũng nằm trong mùa nầy. Nhìn những chiếc lá lìa cành, bóng chiều dần dần buông phủ, đàn chim vẩn vơ bay về tổ ấm. Tiếng chuông chùa đâu đây ngân nga khiến nhạc sĩ Đỗ Kim Bản nhớ về mẹ hiền, nhớ đến gương hiếu hạnh của Bồ-tát Mục-Kiền-Liên, khiến dòng nhạc của ông tuông chảy: “ Đìu hiu gió, bóng chiều rơi theo lá thu. Có đàn chim bay vẩn vơ chuông chùa xa đưa huyền mơ. Mục-Kiền-Liên đứng nhìn cảnh đêm dần lan. Nhớ mẹ xót xa tâm hồn bóng mẹ biết bây giờ đâu... Rồi cũng từ đó người nhạc sĩ nầy nguyện cố noi theo gương Bồ-tát: Mục-Kiền-Liên chúng con cố nguyện noi từng bước vàng.”

 

Đối với  giờ giấc sinh hoạt trong xã hội Việt Nam khi xưa, tiếng chuông chùa ảnh hưởng cũng không nhỏ. Từ ngày có tiếng chuông tinh tấn công phu sớm tối của các thiền sư, những chú gà trống không còn có lý do để tranh công với 5 loại gia cầm khác, giờ đây có lẽ tiếng gáy của các chú vào mỗi buổi sáng chỉ  còn có công dụng để ve vản, tỏ tình với các cô gà mái tơ. Người dân nay nghe tiếng chuông để thức giấc chuẩn bị cho công việc đồng áng hoặc chợ búa hay thu xếp mọi việc để trở về nhà: 

 

         Gió đưa cành trúc la đà

         Hồi chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương

         Trên chùa đã dộng tiếng chuông

        Gà Thọ Xương đã gáy, chim trên nguồn đã kêu

Hoặc: Chiều chiều bìm bịp giao canh

        Trống chùa đã đánh sao anh chưa về

 

Khi người dân dùng tiếng chuông chùa để định giờ giấc cho công việc làm ăn của mình, thì từ đó cũng phát sinh ra những câu chuyện cổ tích mang nội dung như những bài thuyết giảng của đức Như Lai.

 

Ngày xưa có một anh chàng chuyên về nghề giết lợn đem thịt ra chợ bán. Anh ta sống gần một ngôi chùa, mỗi sáng khi nghe tiếng chuông đổø anh giết lợn để kịp phiên chợ. Một hôm vị trụ trì ngôi chùa nằm mơ thấy một người đàn bà dẫn đàn con đến xin cứu mạng. Vị thiền sư liền hỏi bằng cách gì thầy có thể cứu mạng. Người thiếu phụ nói ngày mai khi dậy tụng kinh xin thầy đừng đánh chuông thì mẹ con nàng sẽ được cứu, vị trụ trì nhận lời. Sáng hôm sau, sư cụ lẳng lặng dậy tụng kinh mà không thỉnh chuông công phu như thường lệ. Không nghe tiếng chuông báo thức nên chàng đồ tể ngủ thẳng giấc, đến khi tỉnh dậy mặt trời đã lên cao, nếu giết lợn không còn kịp thời gian của phiên chợ nữa. Anh chàng bực mình lên chùa hỏi sư cụ sao không đánh chuông khiến anh phải lỡ dở công việc. Vị thầy kể lại giấc mơ. Anh ta liền về nhà, chạy ra chuồng lợn xem thì thấy con lợn nái mình định mổ thịt đã sinh một đàn con. Anh tự nghĩ loài súc vật cũng có linh hồn, cũng tham sống sợ chết, cũng vì con sẵn sàng hy sinh cho con thế mà lâu nay vì sinh kế anh đã giết bao nhiêu sinh mạng. Anh liền bỏ đao đồ tể, quyết chí tu hành sau nầy trở thành vị A-la-hán. Chỗ con dao anh cắm xuống hôm sau mọc lên một loại cây, thân cây có đốt ngắn giống thân cau rừng nhưng lá giống những lưỡi dao có màu đỏ như máu, người dân nơi đây gọi tên là cây huyết dụ. Ngày xưa con dao đồ tể đã giết bao nhiêu sinh mạng, ngày nay với lá cây huyết dụ đã cứu biết bao phụ nữ bị bịnh sản hậu, ôi câu chuyện thật thâm thúy, đượm mùi đạo hạnh lắm thay.

 

Một câu chuyện khác liên quan đến tiếng chuông tôi được nghe mẹ kể trong thuở bé thơ. Đó là câu chuyện Con trâu vàng hồ Tây.  Vào đời nhà Lý, có vị thiền sư với một túi nhỏ trên vai đi chu du khắp nơi quyên góp đồng đen để về đúc chuông. Vị thiền sư  qua Tàu vào cung gặp vua Tống xin nhà vua rộng lòng bố thí cho mình một số đồng đen để đúc qủa đại hồng chung. Vua Tống hỏi cần bao nhiêu theo thủ kho mà lấy, vị thiền sư chỉ chiếc túi đeo trên vai nói cho đầy túi nầy là đủ. Không ngờ cả kho đồng của vua Tống cho vào túi cũng chưa đầy. Khi về nước vị thiền sư liền tiến hành việc đúc chuông. Đại hồng chung đúc xong, lễ an vị và khai chuông được tổ chức rất trang nghiêm, trọng thể. Khi tiếng chuông được gióng lên thì âm thanh ngân nga, vang rền qua mãi bên Tàu khiến con trâu vàng trong kho vua tưởng tiếng mẹ gọi liền tung cửa chạy thẳng qua nước Nam. Đến hồ Tây thấy bóng mình dưới nước trâu vàng tưởng mẹ nên nhảy ùm xuống. Tương truyền rằng nếu ai một vợ, một chồng mà sinh được 12 người con trai thì sẽ kéo được con trâu vàng. Tôi tự nghĩ tại sao lại là con trâu vàng mà không phải con vật khác, tại sao phải 12 người con trai. Theo thiển ý của tôi con trâu vàng phải chăng ẩn chứa bài pháp chăn trâu và mất trâu, 12 người con trai ám chỉ cho giáo pháp 12 nhân duyên. Nếu ai hiểu thông suốt bài pháp 12 nhân duyên sẽ phá được màn vô minh che phủ, Phật tánh sẽ được phơi bày. Kéo được trâu là mình đã tìm được bản lai diện mục của mình. Tôi cũng tự hỏi không biết vị thiền sư nầy có phải thiền sư Nguyễn Minh Không trong sách Chùa Xưa Tích Củ mà tác giả Nguyễn Bá Lăng đề cập đến chăng. Nếu vị sư nầy đúng là thiền sư Nguyễn Minh Không thì qủa đại hồng chung này rất có thể là chuông Phả Lại, nó là một trong bốn  vật báu của nước ta, ba thứ còn lại là tháp Báo Thiên  của chùa Báo Thiên với đỉnh tháp toàn bằng đồng, tượng Phật chùa Quỳnh Lâm với những nghệ thuật điêu khắc tuyệt vời của nền văn hoá Phật giáo thời đại Lý – Trần và cuối cùng là vạc Phổ Minh.  Phải chăng đó cũng do công trình kiến tạo của vị sư nầy. Rất tiếc ngày nay những vật thể nầy không còn nữa. Nếu có còn chăng đó là sự nuối tiếc trong lòng người dân. Điều đáng đau buồn thay khi những  sản phẩm văn hoá đó đã bị một số người con hư hỏng hổ trợ, tiếp tay trong việc huỷ diệt. Nếu có còn chăng đó là sự ghi chép lại những dữ kiện trong trang sử nước nhà và sự phê phán của hậu thế. Nhằm mục đích khuyên răn con cháu tổ tiên ta có câu:

 

                               Trăm năm bia đá thì mòn

                               Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ

        Hoặc :            Cọp chết để da, người ta chết để tiếng

 

Cũng từ  câu ca da tục ngữ trên cho chúng ta thấy có những dòng sông, những tác phẩm nghệ thuật, những nhân vật kèm theo các công trình, các sách lược hay các di tích văn hóa đã và đang là những điểm son trong lịch sử dân tộc, như sông Bạch Đằng với chiến công phá quân Nam Hán của Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo phá quân Nguyên Mông. Sông Nhật Tảo với chiến công đốt tàu chiến Pháp của cụ Nguyễn Trung Trực...Nhưng cũng có những dòng sông tạo nên ô nhục cho dân tộc như dòng sông Gianh, sông Bến Hải. Những công trình kiến tạo nghệ thuật cũng thế. Ngày nay khi chúng ta viếng thăm Vạn Lý Trường Thành, nhìn thấy một kỳ quan của thế giới do con người tạo dựng  lên. Nhưng nó cũng  một vật thể minh chứng cho hành động huỷ diệt một di sản văn hoá nhân loại bởi một chế độ bạo tàn đốt sách chôn học trò, coi mạng dân như cỏ rác. Đó chính là chứng tích nhục nhã cho những ai đã tạo dựng nên nó, giờ đây chúng ta không còn nghe tiếng chuông chùa Báo Ân, chùa Báo thiên, tiếng khánh Linh Hựu... Thiển ý của tôi có những hồi chuông, những tiếng chuông vẫn vượt không gian, thời gian tồn tại mãi, giáo lý của Đức Từ Phụ ngày nay đã được các trưởng tử Như Lai rao truyền khắp năm châu bốn biển, mang thông điệp tình thương đến cho nhân loại, đó chính là những tiếng chuông, những hồi chuông vẫn ngân vang và ngân vang mãi  mãi để thức tỉnh tình người..

 

                               Phật Đàn 2551 năm 2007

 



***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/02/2015(Xem: 7837)
Sinh ra không được lạnh lặn, thiếu đi đôi bàn tay nhưng Hạnh đã vượt lên số phận để vươn lên và ông trời đã không phụ lòng Hạnh. Sinh ra đã không có tay, nhiều người lại đồn thổi rằng Hạnh bị “ma ám”, tuy nhiên, vượt qua mọi khó khăn, cậu bé Hạnh khiến nhiều người phải cảm phục nghị lực của em khi em dùng chân viết chữ, chải đầu, chạy xe và hơn cả là em đã đoạt huy chương bơi lội. Đó là cậu bé Hồ Hữu Hạnh (16 tuổi, ngụ xã Gia Canh, huyện Định Quán, Đồng Nai). Là con trai đầu trong gia đình có bốn anh chị em nhưng Hạnh lại là người khác biệt nhất. Khi sinh ra Hạnh không có tay. Nhưng điều gia đình và mọi người xung quanh ngạc nhiên là khi lên 3 tuổi, Hạnh đã dùng chân cầm nắm những vật nhỏ như lược chải tóc, đồ chơi...
31/01/2015(Xem: 7926)
Như một thiện duyên, tôi khởi sự viết tản văn khi đã lớn tuổi. Dầu cho tâm thế là nhẹ nhàng khi viết, nhưng nhiều lúc cứ tự trách mình, sao trí nhớ mình dở để đến nỗi những gì mình đọc, những gì mình nghe bị cuốn đi đâu; thế là khi viết, phải đi tìm tài liệu, rồi đi hỏi. Vì vậy, tôi rất phục những người có trí nhớ tốt, lại càng khâm phục những người nghiên
30/01/2015(Xem: 9924)
Hôm mồng 08 tháng 12 Âm lịch (27/01/2015), Tổ đình Thiền tông Thiếu Lâm Tự tổ chức nấu Cháo Bát Lạp, để dâng cúng dường Kỷ niệm ngày đức Thích Ca Mâu Ni thành Phật, hoạt động này đã thu hút hàng trăm Phật tử tham gia chế biến món truyền thống với hương vị đặc trưng này. Hôm nay cũng là Lễ hội Cháo Bát Lạp nhân Kỷ niệm ngày đức Thích Ca Mâu Ni thành Phật, được gọi là “Pháp Bảo Tiết”. Vào buổi sáng lúc 08 giờ 30 phút, Hòa thượng Thích Vĩnh Tín, Phương trượng Thiếu Lâm Tự, cùng đại chúng vân tập Đại Hùng Bửu điện cử hành cung phụng Pháp hội, những tình nguyện viên, thiện nam tín nữ Phật cầu Phúc.
26/01/2015(Xem: 9790)
Bất cứ tổ chức nào muốn tồn tại lâu dài và muốn phát triển mục đích, cũng như tôn chỉ của mình đến với đa số quần chúng, thì tổ chức đó phải có nhân sự. Nhân sự là một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển hay suy vong của tổ chức. Đào tạo nhân sự thiếu phẩm chất Bi Trí Dũng, đó là nguyên nhân suy thoái của Tổ chức GĐPT. Đào tạo nhân sự có đầy đủ phẩm chất Bi Trí Dũng, đó là nguyên nhân tồn tại và phát triển của Tổ chức GĐPT.
20/01/2015(Xem: 7876)
Đến bây giờ mới thấy đây. Câu nói này của ai mà nghe quen thuộc thế? Của Nguyễn Du rồi. Ô hay! Cái ở đây chỉ có thể thấy được khi mình trở về được với cái bây giờ. Đến được cái bây giờ thì mới thấy được cái ở đây. Cái ở đây là cái không gian. Cái bây giờ là cái thời gian.
20/01/2015(Xem: 7201)
Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của Phật Giáo Tây Tạng là tương duyên sanh khởi hay duyên sanh. Không điều gì có thể tồn tại hay có thể xảy ra trên chính nó mà không liên hệ và nương tựa vào những nhân tố khác. Hơn thế nữa, mọi thứ sinh khởi từ một phức hợp của nhiều nguyên nhân và hoàn cảnh; không thứ nào sinh khởi từ việc chỉ dựa trên một nguyên nhân hay từ hoàn toàn không nguyên nhân. Thí dụ, một thân thể khỏe mạnh sinh khởi, trên trình độ nội tại, lệ thuộc trên tất cả những nội tạng và hệ thống chức năng của nó biểu hiện trong sự hòa điệu với nhau.Về trình độ ngoại tại, sức khỏe tốt cũng tùy thuộc vào thuốc men, dinh dưỡng, sự săn sóc ân cần từ người khác, môi trường, và v.v… Tương tự thế, một xã hội lành mạnh sinh khởi, trên trình độ nội tại, lệ thuộc vào toàn thể những nhóm thành viên của nó hợp tác với nhau và hoạt động hòa hiệp với nhau. Ở trình độ ngoại tại, xã hội lành mạnh cũng tùy thuộc vào những nhân tố kinh tế, chính trị môi trường, cũng như hoàn cảnh thế giới
20/01/2015(Xem: 7186)
Một nhóm 50 người đang tham dự một seminar, đột nhiên diễn giả ngừng lại và đề nghị nhóm tham gia một hoạt động, ông ta đưa cho mỗi người một quả bóng bay và yêu cầu từng người viết tên của mình lên quả bóng bay. Sau đó, những quả bóng bay được đưa tới một căn phòng khác. Những người tham dự bước vào căn phòng có những quả bóng và phải tìm ra quả bóng có tên của họ trong vòng 5 phút. Mọi người đều cố gắng tìm quả bóng có tên của mình, xô đẩy những người khác và đẩy các quả bóng khác sang một bên. Khung cảnh rất hỗn độn.
18/01/2015(Xem: 7834)
Đức Đạt Lai Lạt Ma từng dạy rằng tiền bạc không mang lại hạnh phúc, vì hạnh phúc thuộc về lãnh vực tinh thần, con người không thể mua được, kể cả máy móc cũng không thể cung cấp cho chúng ta chút hạnh phúc nào cả: “Tiền bạc và giàu sang chỉ mang lại cho con người một phần nào hạnh phúc, chứ không thể có hạnh phúc trọn vẹn. Không ai có thể ban phát cho chúng ta hạnh phúc, hạnh phúc đến từ trong tâm của chính chúng ta. Tâm bình an chính là nguồn hạnh phúc tuyệt vời nhất. Nó không tùy thuộc vào ngoại cảnh. Cuộc sống của chúng ta dù tiện nghi vật chất không đầy đủ, học vấn thời tầm thường hay sự nghiệp công danh không mấy thành công thời cũng chẳng sao, miễn là tâm chúng ta an lạc.” (Live In A Better Way.)
17/01/2015(Xem: 14485)
Trong kinh A Hàm lại kể một câu chuyện như sau: Có một người ngoại đạo tên Tu Nhàn Đề đến yết kiến Đức Phật để bài bác chủ trương xa lìa ngũ dục của Phật giáo. Sau khi Đức Phật dùng đạo lý giáo hóa thì ông tỉnh ngộ và bấy giờ Đức Phật mới nói cho ông nghe bài kệ: Không bịnh lợi bậc nhất Niết bàn vui bậc nhất. (Tịch diệt vi lạc)
17/01/2015(Xem: 11682)
Trái đất đang đi vào chỗ chết: rừng rú, tài nguyên đang bị khai thác kịch liệt, ô nhiễm tràn đầy mọi xứ, nhiệt độ khắp quả đất ngày càng lên cao, cả ngàn súc vật bị giết để tế thần, đất đai của người nghèo bị chính quyền mua rẻ để xây cất... Lúc này hơn lúc nào hết chúng ta phải đọc lại các bài học của người xưa để lại, để suy ngẫm và hành sự.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]