Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nữ hoàng Shima và Dấu vết của Phật giáo từ Quá khứ ở Jepara, Indonesia

02/11/202009:16(Xem: 5269)
Nữ hoàng Shima và Dấu vết của Phật giáo từ Quá khứ ở Jepara, Indonesia

Nữ hoàng Shima và Dấu vết của Phật giáo từ Quá khứ ở Jepara, Indonesia

(Ratu Sima dan Jejak Agama Buddha Masa Lalu di Jepara)

 Nữ hoàng Shima và Dấu vết của Phật giáo từ Quá khứ ở Jepara 1

Hình 1: Candi Sima, một ngôi đền do người Jepara xây dựng.

 

Trong các đề tài trước, chúng ta đã thảo luận về bản đồ của các Phật tử ở Jepara, tỉnh Java, Indonesia. Tuy nhiên, những Phật tử “tồn tại” (ada) ở jepar, tỉnh Java ngày nay, theo các vị bô lão, chỉ sinh sôi và phát triển vào năm 1965. Vậy thì Phật giáo ở Jepara trước năm 1965 có còn dấu tích gì không?

 

Từ quá khứ rất xa xưa trước khi Indonesia “tồn tại” các Vương quốc lớn đã chiến thắng ở quần đảo Nusantara. Jepara là một trong những trung tâm của Vương quốc đã từng chiến thắng. Vương quốc Kalingga thuộc Indonesia với Nữ hoàng Shima ở ngôi vua cai trị đất nước.

 

Tuy nhiên, đôi khi lịch sử trở nên mờ nhạt, cho đến nay tung tích của Vương quốc Kalingga thuộc Indonesia với Nữ hoàng Shima ở ngôi Quốc vương cai trị đất nước vẫn là một bí ẩn. Không có tìm được nhiều lăng mộ. Theo lời kể của một người dân ở Jepara, cách đây hàng chục năm người ta đã tìm thấy một vương miện bằng vàng, đến nay vẫn chưa rõ chiếc vương miện này. Tương tự như vậy, câu chuyện về Nữ hoàng Sima vẫn chưa cụ thể rõ ràng. Sau đó, câu chuyện giữa Vương quốc Kalingga thuộc Indonesia với Nữ hoàng Shima ra sao?

 

Tiểu sử Nữ hoàng Shima

(648 - 674)

 Nữ hoàng Shima 1

Nữ hoàng Shima cai trị Vương quốc Kalingga thuộc Indonesia vào thế kỷ thứ 7, dọc theo bờ biển phía bắc của Trung Java vào khoảng năm 674 sau Tây lịch.

 

“Để ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp, áp bức và bất công xã hội gây ra”, Nữ hoàng Shima đã ban hành luật chống nạn trộm cướp để khuyến khích người dân trung thực, và duy trì sự thật. Theo truyền thống, một vị vua nước ngoài đã đặt một chiếc túi chứa đầy vàng trên giao lộ ở Vương quốc Kalingga thuộc Indonesia để thử lòng trung thực nổi tiếng của người dân Kalingga. Không ai dám động vào chiếc túi không thuộc sở hữu của mình, cho  đến 3 năm sau, con trai của Nữ hoàng Shima, Thái tử đã vô tình chân lỡ chạm vào chiếc túi vàng. Nữ hoàng Shima đã ban hành bản án tử hình đứa con trai yêu quý của mình, nhưng đã bị phủ nhận bởi vị Hình bộ Thượng thư, họ đã viết sớ tấu trình lên Thánh ý Nữ hoàng Shima tha mạng cho Thái tử: “Lỗi là tại bàn chân của Thái tử, bởi Thái tử không đã vô tình dẫm đạp lên túi vàng, vì thế chỉ cần hình phạt nhẹ là xẻo một phần bàn chân là đủ”. Để nêu gương cho dân, theo lời can gián của các vị quan chức trong Hình bộ, Nữ hoàng Shima đã ban Thánh chỉ xử phạt chặt ngón chân cái của Thái tử.

 

Nữ hoàng Shima được biết đến như một nhà lãnh đạo uy quyền và quyết đoán. Thậm chí Nữ hoàng Shima không ngần ngại thẳng tay trừng trị Thái tử con trai yêu quý của mình, vì đã vi phạm các quy tắc đã được thiết lập của Vương quốc Kalingga thuộc Indonesia.

 

Nữ hoàng Shima sinh năm 611 sau Tây lịch, là Hoàng hậu của đức Vua  Kartikeyasinga, người đã trở thành Nữ hoàng Vương quốc Kalingga thuộc Indonesia (648-674) khi  đức Vua  Kartikeyasinga băng hà, Nữ hoàng đăng quang lên ngôi Vua của Vương quốc Kalingga thuộc Indonesia với tước hiệu “Sri Maharani Mahissasuramardini Satyaputikeswara. Nữ hoàng Shima là một tín đồ đạo Hindu tín ngưỡng Thần Shiva.

 

Maharani, hay Shima, là Hoàng hậu của của đức Vua Kartikeyasinga (632-648), người đã trở thành Nữ hoàng Vương quốc Kalingga thuộc Indonesia (648-674). Họ có hai người con, đó là Parwati và Narayana (Iswara).

 

Thái hậu mẹ của đức Vua Kartikeyasinga đến từ Vương quốc Sribuja, Mã Lai (Malaysia) và Kinh đô ở Palembang.

 

Thành phố Palembang (thuộc Indonesia ngày nay), kinh đô của Vương quốc Srivijaya, một vương triều Mã Lai hùng mạnh và có ảnh hưởng tới cả khu vực Đông Nam Á. Các dấu tích sớm nhất về sự tồn tại của thành phố là từ thế kỷ thứ 7; Tam tạng Pháp sưu Nghĩa Tịnh (三藏法師義淨, 635-713), Thánh tăng Phật giáo Trung Hoa đã ghi chép về chuyến thăm Srivijaya trong vòng 6 tháng của Ngài vào năm 671.

 

Các ghi chép về các chuyến đi của Ngài đã góp phần vào sự hiểu biết thế giới của vương quốc cổ xưa Srivijaya, cũng như cung cấp thông tin về các vương quốc khác nằm trên tuyến đường giữa Trung Quốc và học viện Phật giáo Nālandā ở Ấn Độ. Ông cũng là người thực hiện một số bản dịch của một số lượng lớn các kinh Phật từ tiếng Phạn sang tiếng Trung Quốc.

 

Con gái yêu quý của Nữ hoàng Shima, nàng Công chúa Parwati kết hôn với Thái tử Sang Jalantara hay Rahyang Mandiminyak, Vương quốc Galuh, và vị Thái tử này đã trở thành vị vua thứ hai của Vương quốc Galuh với tước hiệu Prabu Suraghana (702-209).

 

Dưới thời trị vì của Nữ hoàng Shima, Vương quốc Kalingga thuộc Indonesia đã đạt đến đỉnh cao vinh quang. Nữ hoàng Shima được ghi nhận là một nhà lãnh đạo trung thực và cương nghị. Sự kiên định của Nữ hoàng Shima không chỉ được truyền tụng ở Vương quốc Kalingga thuộc Indonesia mà còn ở nhiều quốc gia khác nữa.

 

Trong quan hệ tôn giáo, Vương quốc Kalingga thuộc Indonesia còn được biết đến là một nhân vật bao dung độ lượng. Mặc dù Nữ hoàng Shima theo đạo Hindu tín ngưỡng Shiva, nhưng thời bấy giờ Phật giáo vẫn phát triển và cùng tồn tại với các tôn giáo khác.

 Nữ hoàng Shima và Dấu vết của Phật giáo từ Quá khứ ở Jepara 2

Triều đại của Nữ hoàng Shima

(Pemerintahan Ratu Shima)

 

Khi Nữ hoàng Shima lên nắm quyền nhiếp chính, Vương quốc Kalingga đã đạt đến đỉnh cao hoàng kim. Vào lúc bấy giờ, Vương quốc Kalingga đã có một thương cảng được sử dụng như một trung tâm kimh tế thương mại, vào thời điểm đó, thương cảng này còn nhộn nhịp nhất ở Java. Trên thực tế, thương cảng thường được sử dụng làm nơi giao lưu của các quốc gia khác nhau.

 

Vương quốc Kalingga đã thành công trong việc tiếp quản nơi buôn bán sầm uất nhất, mà sau đó Vương quốc Tarumanegara kiểm soát. Thương cảng nằm dọc theo ven biển phía bắc của Tây Java. Thậm chí Vương quốc Kalingga còn thành công trong việc thiết lập quan hệ hợp tác với Đế chế Trung Hoa từ thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch.

 

Ngoài thành công trong lĩnh vực kinh tế thương mại, Vương quốc Kalingga còn thành công trong việc cải thiện nền kinh tế và đời sống của người dân. Nó còn được hỗ trợ bởi nhiều khía cạnh khác cũng không kém phần tiên tiến. Vào thời điểm đó, ngành nông nghiệp cũng chịu ảnh hưởng sự tiến bộ của Vương quốc Kalingga.

 

Được biết, vào thời điểm đó Nữ hoàng Shima đã sử dụng một hệ thống thông minh. Cụ thể là hệ thống tưới tiêu Subak, cũng được áp dụng bởi những người nông dân theo đạo Hindu ở khu vực Bali. Theo Tạp chí của Viện Nghệ thuật Indonesia, vào thời điểm đó cư dân của Nữ hoàng Shima là những người có kỹ năng thủ công mỹ nghệ cao. Ví dụ như đóng thuyền tàu, mộc, xây nhà, và những thứ khác.

 

Thời trị vì của Nữ hoàng Shima tại Vương quốc Kalingga thuộc Indonesia, nông nghiệp và thương mại phát triển mạnh mẽ, hàng hóa được giao dịch bao gồm vàng bạc, đồi mồi, ngà voi và các sản vật khác. Một số cư dân cũng thành thạo trong việc sản xuất rượu.

 

Ngoài nông nghiệp và thương mại phát triển mạnh, Vương quốc Kalingga thuộc Indonesia còn được coi là trung tâm của nền văn hóa Hindu. Điều này được chứng minh qua di sản bởi 3 ngôi Đền Candi Angin, Candi Bubrah và Candi Sanga Likur. Ngoài các ngôi Đền, hai bản khắc cũng đã được tìm thấy, đó là bản khắc Sojometo.

 

Tương tự như mô tả trong lịch sử của triều đại nhà Đường, Trung Hoa, Vương quốc Kalingga thuộc Indonesia được cho là nằm trên một hòn đảo ở phía nam đại dương. Vị trí  của nó là ở phía đông Sumatra và ở phía tây của Pali. Nếu nó đi về phía bắc của Vương quốc Campuchia và nếu nó đi về phía nam đại dương.

 

Các cư dân đã làm công trình phòng thủ bằng gỗ. Ngay cả những tòa nhà lớn nhất cũng đã phủ lợp bằng lá cọ. Họ có những sảnh ngà voi. Ngay cả chiếu bên ngoài cũng được làm từ tre. Trong tòa nhà này, đức Vua đang ngự trên ngai vàng.

 

Khi ăn người dân không dùng thìa, đũa. Họ đưa thức ăn vào miệng bằng các ngón tay. Nhân gian truyền tụng rằng, cộng đồng Vương quốc Kalingga thuộc Indonesia quen thuộc với thiên nhiên. Họ cũng biết một chút về thiên văn học.

 

Vương quốc Kalingga thuộc Indonesia này được cho là một quốc gia giàu có. Có một hang động chứa nước và tự tuôn chảy. Đức vua sống ở Japara (thành phố Java ngày nay). Đức vua được phò tá bởi 32 Bộ trưởng cao cấp.

 

Xung quanh Vương quốc Kalingga thuộc Indonesia có 28 quốc gia nhỏ, công nhận hùng mạnh phú cường của Java.

 

Các đường dây kiểm soát kinh tế thương mại do Vương quốc Kalingga bắt đầu bị lung lay. Tham vọng của Đế chế Srivijaya nhằm kiểm soát hoạt động kinh tế thương mại trên khắp bờ biển phía bắc Java đã làm nảy sinh sự cạnh tranh gay gắt. Điều này nói lên rằng, Vương quốc Kalingga là một trong những Vương quốc mà Đế chế Srivijaya muốn chinh phục. Tham vọng đã thành công. Vào khoảng năm 725 sau Tây lịch, Vương quốc Kalingga sụp đổ, do thua trận trong cuộc chiến kinh tế thương mại.

 

Vương quốc Kalingga thuộc Indonesia dưới thời Nữ hoàng Shima được ghi nhớ như một Vương quốc nổi tiếng và văn minh. Vị Nữ hoàng lãnh đạo bén nhạy và tận tâm vì dân quên mình. Trong thời gian lãnh đạo của Nữ hoàng Shima, hệ thống nông nghiệp và hệ thống thủy lợi phát triển tốt. Nền kinh tế quốc dân tự động được đảm bảo.

 

 Nữ hoàng Shima đã cai trị Vương quốc Kalingga được 21 năm. Trong thời gian trị vì của bà, Vương quốc Kalingga đã thành công trong việc trở thành Vương quốc lớn duy nhất ở Trung Java lúc bấy giờ. Vương quốc Kalingga còn được biết đến là người cai trị Bờ biển phía Bắc. Nữ hoàng Shima là người bao dung độ lượng và công bằng với những khác biệt tôn giáo tại Vương quốc do bà cai trị. Những người theo tôn giáo khác, ví dụ như Phật giáo, và những người theo đạo Hồi, hài hòa chúng sống trong tình đời ý đạo, tôn trọng lẫn nhau và tôn trọng sự khác biệt.

 

Đôi nét về Vương quốc Kalingga

 

Thông tin về về Vương quốc Kalingga vĩ đại về hoạt động Phật giáo She-po (Java), điều này cũng có thể xảy ra dưới thời trị vì của Nữ hoàng Shima.

 

Theo lịch sử Tam tạng kinh điển được biên soạn vào khoảng năm 720, có một vị cao tăng Phật giáo pháp danh là Gunawarman. Vị cao tăng này từ Kashmir đến Vương quốc Java vào đầu thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch, theo lời thỉnh cầu bởi mẹ của Nữ hoàng Shima. Cao tăng Gunawarman dừng chân hoằng dương chính pháp tại Vương quốc Java chưa đầy 25 năm (396-424).

 

Theo ghi chép cho biết, giữa thế kỷ thứ 7, có vị tăng sĩ Phật giáo pháp danh Hui-ning đã tu học ở Vương quốc Kalingga thời gian 3 năm, từ 664-667, Ngài đã thụ giáo tu học Phật pháp với một vị cao tăng người Java pháp danh là Jnanabhadra.

 

Một nền văn minh của lòng khoan dung

 

Tín ngưỡng Thần Shiva và Đức Phật trong các Vương quốc vạn đảo, trong quá khứ đã cùng nhau hài hòa. Ấn độ giáo tín ngưỡng Thần Shiva và Phật giáo luôn luôn cùng nhau phát triển. Trong phần giải thích ở trên, Nữ hoàng Shima theo đạo Hindu tín ngưỡng Thần Shiva, nhưng cũng có những nguồn thông tin khác nói rằng, Nữ hoàng Shima là một Phật tử Hộ pháp.

 

Trong sách lịch sử, “Kawitane Wong Jowo Lan Wong Kanung” có nhắc đến Dewwi Simaha và Tỳ khưu Janabadra với Cung điện Keling, hiện là một trong những tên gọi của các tiểu khu ở Jepara Regency. Hiện quận Keling là một trong những cơ sở tự viện Phật giáo ở Jepara Regency.

 

Điểm thứ hai đến từ Pak Mintono, một giáo viên cấp tiểu học Phật giáo, con nuôi của Mbah Kasboe, một trong những nhân vật trong việc truyền bá chính pháp Phật đà và phát triển Phật giáo Jepara vào khoảng năm 1967.

 

Manh mối thứ ba mà chúng tôi tìm thấy khi đến thăm Bảo tàng Kartini, thành phố Jepara. Tại Bảo tàng Kartini, chúng tôi tìm thấy một số hồ sơ và di vật, cho thấy một di tích của nền văn minh Phật giáo ở Jepara.

 

Một số di vật chúng tôi tìm thấy là tượng Phật với tư thế đứng, tàn tích thu nhỏ của các cơ sở tự viện Phật giáo trên sườn núi. Chúng tôi cũng có ghi chép một câu chuyện về những tàn tích của một tu viện Phật giáo, từ một trong những cư dân ở Jepara. Ngoài ra, chúng tôi còn nhận được một số viên đá khắc tại Tu viện Phật giáo được cất giữ trong Viện bảo tàng.

 

Bất kể cuộc tranh luận về việc Nữ hoàng Shima theo tôn giáo nào, ít nhất hai ghi chép lịch sử nêu trên, cho thấy rằng Phật giáo đã phát triển trong quá khứ ở Jepara.

 

Tác giả: Cư sĩ Surahman Ana

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: Situs Berita Buddhis Indonesia)

 

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/08/2020(Xem: 5957)
Giáo sư Lewis Lancaster sinh ngày 27 tháng 10 năm 1932, Giáo sư danh dự của Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Đông Á (East Asian Languages and Cultures) tại Đại học California, Berkeley, Hoa Kỳ, đã từng là Chủ tịch, Giáo sư phụ trợ, Chủ tịch Hội đồng xét Luận án (Chair of the Dissertation Committee) của đại học University of The West (California) từ năm 1992. Ông còn là Giáo sư Danh dự của khoa Ngôn ngữ Đông Á (East Asian Languages), Khoa trưởng Khoa Phật học (Buddhist Studies) thuộc đại học UC Berkeley; và đã từng giữ chức vụ Viện trưởng (2004-2006).
02/08/2020(Xem: 6300)
Trong khoảng chục ngày nay, các báo Việt Nam đưa tin toàn chuyện dịch bệnh CoViD-19 , vì nó đang đe dọa trở lại sau một thời gian 3 tháng tạm thời im ắng. Ngay lúc này, giở ra đọc lại sách Chớ quên mình là nước - Tạp văn, khảo luận về nước và môi trường của Văn Công Tuấn mà tôi đã được tác giả gởi tặng từ một tháng trước, ý thức về tầm quan trọng đối với môi trường sống của tôi càng trở nên đậm nét.
02/08/2020(Xem: 8468)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian này vì một mục đích duy nhất làm cho tất cả chúng sanh được giác ngộ, thoát khỏi khổ đau được an lạc giải thoát. Vì thế, trong kinh nói: “Như Lai thị hiện nơi cuộc đời này, là để xua tan bóng tối vô minh và chỉ cho nhân loại con đường đi đến sự đoạn tận của khổ đau”.
01/08/2020(Xem: 6152)
Cư sĩ Sandy Huntington sinh ngày 24 tháng 2 năm 1949, ông sinh ra và trưởng thành tại East Lansing, Michigan, một thành phố thuộc quận quận trong tiểu bang Michigan, Hoa Kỳ và học đại tại bang Michigan. Sau khi tốt nghiệp đại học, ông đi du lịch đến Na Uy, học tiếng Na Uy và bắt đầu say mê học ngôn ngữ và văn học suốt đời.
01/08/2020(Xem: 5137)
Nói và nghe là hai yếu tố quan trọng trong đời sống con người.Từ thời cổ xưa con người sống trong hang đá rừng rậm chưa có chữ viết chưa có lời nói, nên con người phát biểu tình cảm hay ý muốn bằng âm thanhgầm gừ,ậm ừ … từ trong cổ họng, hoặcbiểu lộ bản năng cảm xúc bằngánh mắt hay cử chỉ quơ tay động chân.Đời sống của con người lúc ấy không mấy khác với đời sống của thú rừng hoang dã.
29/07/2020(Xem: 6713)
Tại Việt Nam, nơi có dân số khoảng 97 triệu nhân khẩu, Vương quốc Campuchia với dân số khoảng 16,24 người, đều không có trường hợp tử vong do đại dịch Virus corona chủng mới. Tại Vương quốc Thái lan, nơi có dân số 70 triệu người, có 58 người tử vong do nhiễm Covid-19 (Lưu ý: So với Vương quốc Anh, nơi có dân số gần 66 triệu người, đã có hơn 45.000 người chết). Về việc phòng chống đại dịch Virus corona, tại sao các quốc gia nêu trên lại hoạt động phòng chống đại dịch tốt hơn các quốc gia khác trên thế giới? Họ đều là những quốc gia Phật giáo. Sự thành công của công tác phòng chống đại dịch hiểm ác này có liên quan gì đến văn hóa Phật giáo bản địa không?
10/07/2020(Xem: 8290)
Hồi tháng Giêng năm nay, ông Mohan Paswan, một tài xế xe thồ tuk-tuk, bị thương trong một tai nạn giao thông. Ông tạm trú ở Gurugram, ngoại ô thủ đô New Delhi, nơi ông suốt ngày hành nghề chở khách bằng chiếc xe cà tàng có gắn máy. Tiền kiếm được ông gửi về quê nuôi vợ con ở Bihar, tiểu bang miền đông Ấn Độ, cách xa đến 700 dặm (trên 1.100 km.) Sau tai nạn, ông Paswan không thể tiếp tục chạy xe để kiếm tiền, không những thế ông cần sự săn sóc. Cô con gái ông, Jyoti Kumari, 15 tuổi, nghe tin liền nhảy lên tàu lửa đi tìm cha rồi ở cạnh ông để chăm lo. Thế rồi cơn đại dịch xảy ra.
09/07/2020(Xem: 7338)
Sáu Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thánh Thành là mục tiêu tu hành: Không tranh, không tham, không mong cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối. Những điều này là căn bản làm người, là nền tảng tu hành, và là tiêu chuẩn của chánh quyền. Sáu Đại Tông Chỉ này là sáu con đường sáng. Nếu nhớ được sáu đại tông chỉ này, quý vị có thể thành Phật. Tôi đưa ra sáu đại tông chỉ này cho những người muốn thành Phật, thành Bồ Tát, muốn thành Thanh Văn, A La Hán. Đây là những tông chỉ quan trọng nhất. Nếu thực hành được, quý vị có thể dùng suốt đời, mà vẫn không tận dụng hết được!
08/07/2020(Xem: 6488)
Không còn nghi ngờ gì nữa, khẩu trang đã đóng một vai trò trung tâm trong các chiến lược đối đầu với dịch bệnh COVID-19 của chúng ta. Nó không chỉ giúp ngăn ngừa SARS-CoV-2 mà còn nhiều loại virus và vi khuẩn khác. Cũng không khó để nhận ra rằng khẩu trang đã và đang có xu hướng trở thành quà tặng, chương trình khuyến mãi của nhiều hoạt động kinh doanh. Chạy đua xu hướng "bán hàng tặng kèm khẩu trang", trên các website thương mại điện tử, nhiều gian hàng cũng đua nhau áp dụng hình thức kinh doanh này. Kết quả như thế nào? Nhiều gian hàng đã thấy được hiệu quả rõ rệt khi lượt khách đặt mua tăng mạnh, họ đã vượt qua cơn ế ẩm nhờ tặng kèm khẩu trang. Tương tự, các nhà hàng, tiệm nails, cửa hàng…đều đang theo xu hướng tặng khẩu trang cho khách, vừa để tuân theo trật tự “bình thường mới” trong xã hội, vừa đáp ứng nhu cầu bảo vệ sức khỏe của cả khách hàng và chính mình. Thử tưởng tượng, quý vị bước vào một tiệm nails nhưng quên mang theo khẩu trang, không sao, nhân viên mang cho quý vị m
05/07/2020(Xem: 4994)
Đức Đạt Lai Lạt Ma, Tenzin Gyatso, là lãnh tụ tinh thần và thế quyền của dân tộc Tây Tạng. Ngài sinh vào ngày 6 tháng Bảy năm 1935, trong một ngôi làng gọi là Taktser ở đông bắc Tây Tạng, trong một gia đình nông dân. Đức Thánh Thiện được công nhận vào lúc hai tuổi, phù hợp với truyền thống Tây Tạng, như tái sanh của người tiền nhiệm, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13. Đức Đạt Lai Lạt Ma là hiện thân của Đức Phật Từ Bi, nguyện tái sanh để phụng sự loài người. Đạt Lai Lạt Ma có nghĩa là “Đại dương của trí tuệ.” Người Tây Tạng thường liên hệ đến Đức Thánh Thiện như Yeshe Norbu, “Viên ngọc ước,” hay đơn giản là Kundun, có nghĩa là “Thị Hiện.”
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]