Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chất liệu Tượng Phật

29/09/202017:49(Xem: 2799)
Chất liệu Tượng Phật

Chất liệu Tượng Phật

(Buddha Stuff)

 Tin Chất liệu Tượng Phật 1

Có lẽ chuyến du lịch hành hương không gian mạng, các bạn nhìn thấy một thứ tương tự như thế này từ một cửa hàng trực tuyến: “Chuỗi hạt Tây Tạng Mala Charm Vòng đeo tay Cát tường tuyệt đẹp này với các hạt màu phấn nhẹ nhàng, phù hợp để thực hành chân ngôn thần chú, và để đeo làm đồ trang sức”.

 

Trong thế giới hiện đại với một tiền đề của chuỗi chương trình Bồ tát 4.0, trong trải nghiệm của chúng ta thiết kế là thành phần trung tâm. Cho đến khi chúng ta trưởng thành trong thực hành của mình, chúng ta thường nhầm đường ngón tay chỉ với mặt trăng. Trong nhiều trường hợp, ngón tay đó được trang trí bằng những vật dụng Phật giáo được thiết kế đẹp mắt. Chúng ta đang sống trong một nền kinh tế trao đổi đối tác với các đối tượng, mối quan hệ và thể chất được thiết kế sẳn, vì vậy đôi khi rất khó để nhìn thấy hệ thống đó từ bên ngoài.

 

Trong quá trình đào tạo của tôi với tư cách là một giáo viên thiết kế công nghệ, tôi đã bị ảnh hưởng đặc biệt bởi hai cuốn sách “Hệ thống các Đối tượng” (The System of Objects) (Verso 1968) của tác giả Jean Baudrillard, và “Niềm Khát vọng: Tường thuật về Bộ Sưu tập, Quà Lưu niệm với Không gian Rộng mở và Thu hẹp” (On Longing: Narrations of the Miniature, the Gigantic, the Souvenir, the Collection) (Đại học Báo chí Duke 1992) của Susan Stewatrt.

 

Từ góc độ này, tôi có cảm xúc rất lẫn lộn về các công ty phát hành văn hóa phẩm Phật giáo, ví dụ như đệm thiền, ghế dài, khăn choàng, tượng nhỏ, hương trầm, đồ trang sức, đồ trang trí nội thất và vườn, quà tặng, tràng hạt, nhãn dán, bưu thiếp, vòng tay trang sức, pháp khí và những thứ tương tự. Tôi biết có một nơi hợp pháp cho các đồ vật nghi lễ, nhưng khi chúng được biến thành hàng hóa, tôi cảm thấy những cảm xúc mâu thuẫn. Mặt khác, tôi đánh giá cao nỗ lực của các tổ chức Phật giáo trong việc gây quỹ qua phòng phát hành văn hóa phẩm Phật giáo (thậm chí với giá tăng cao), và tôi đã mua một số lượng đồ vật đáng kể từ họ trong những năm qua (chưa kể những hiện vật nghi lễ mà tôi đã nhận những món quà trân trọng). Vậy vấn đề là bản thân đồ vật của Phật giáo, hay ý định của những người đang bán hoặc mua nó?

 

Tại Trung Quốc, một tìm kiếm trên Alibaba có gắn thẻ “Buddha” cho ra 37.849 mặt hàng có sẵn từ các phòng phát hành văn hóa phẩm Phật giáo. Phần lớn các mặt hàng được chế tác bằng các vật liệu nhựa hoặc kim loại xi mạ giá rẻ, và được thiết kế cho thị trường trang trí đại chúng. Đối với tôi, dường như đó là một số lượng khổng lồ các vật thể được làm từ các chất độc hại không mang lại lợi ích gì cho nhân loại, hoặc nằm ngoài hành tinh một vết thương, cảm giác rất hời hợt và phù du. Không chỉ sẽ tồn tại ô nhiễm với chúng ta trong nhiều thế hệ, mà năng lượng cần thiết để chuyển những mặt hàng này qua chuỗi cung ứng đến bãi chứa là rất lớn. Tỷ lệ chi phí/lợi ích đã không còn nữa. Tuy nhiên, rất dễ bị dính mắc. Tôi tự do thừa nhận rằng, tôi cũng không miễn nhiễm với những điều nhạt nhẽo: Tôi ngẩng đầu lên ngay bất cứ khi nào tôi nhìn thấy biểu tượng Kalachakra (Kim Cương Thời luân) chạy bằng năng lượng mặt trời trên bản điều khiển ô tô của ai đó!

 

Khi trải nghiệm của chúng ta ngày càng trở nên trung gian và trừu tượng, những món quà lưu niệm – không giống như đồ trang trí – sẽ mang lại trải nghiệm đích thực trong niềm hân hoan riêng tư, hoài cổ về sự tiếp xúc và hiện diện của chúng ta. (Tôi đã từng ở đấy; tôi đã thấy điều ấy.) Những đồ vật này gợi lên mối liên hệ với quá khứ nhưng chúng cũng gợi lên sự khao khát về điều đã rời xa, khiến chúng vốn dĩ không trọn vẹn. (Ước gì tôi có thể cảm nhận được điều ấy một lần nữa.) Nhiều ứng dụng Phật giáo chỉ đơn thuần là tương đương kỹ thuật số của những món quà lưu niệm vật chất, được thiết kế để tái tạo một số không gian tinh thần nhất định. 

 

Tương tự như thế, chúng ta tôn kính những Pháp bảo (kinh sách Phật giáo), không phải vì bản thân những trang sách có bất kỳ sức mạnh ma thuật nào, mà bởi vì những ý tưởng mà chúng có sức mạnh trong truyền tải. Cách chúng ta liên hệ với chúng khi các đối tượng cung cấp cho chúng ta một cách để hành động dựa trên sự hiểu biết của chúng ta về ý nghĩa của chúng. Chúng ta chỉ cần cẩn thận để không đối xử với chúng quá theo nghĩa đen bằng cách sửa đổi bản chất thiêng liêng của chúng. Chúng ta cũng phải cẩn thận để không chấp nhận trải nghiệm trung gian của việc đọc bản in, trái ngược với sự hiểu biết trực tiếp từ trải nghiệm đến từ sự gần gũi với thiên nhiên và công phu tu tập thiền định.

 Tin Chất liệu Tượng Phật 2

Bề ngoài, các đồ vật của chúng ta đóng vai trò như những lá bùa hộ mệnh, những dự báo về danh tính của chúng ta. Tất cả chúng ta đều biết các nhà giàu rất hâm mộ, sưu tập các tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng, xe hơi hoặc đồ cổ như thế nào. Hầu hết chúng ta không thể sở hữu bản gốc và vì vật chúng ta phải giải quyết các trường hợp phỏng đoán (hàng nhái). Tuy nhiên, chúng ta tôn sùng những thứ này theo cùng một cách và do đó các đối tượng của chúng ta trở nên thiên về chúng ta hơn là về công dụng và vật chất hơn ban đầu của chúng. Ở đây những thứ Phật giáo sẽ được coi là mẫu vật của những điều kỳ lạ và như những chiến tích kỷ niệm trải nghiệm tức thì của chúng ta về nó. (Tôi có một chiếc áo khoác denim được trang trí bằng đôi mắt Swayambhu, mà tôi đã nhờ một thợ may ở thủ đô Nepal Kathmandu, thêu lên lưng áo khoá. Đây là chiếc áo khoát thứ hai của tôi, thay cho chiếc áo cũ hơn mà tôi đã mặc và tặng cho một trong những đứa trẻ tuổi teen của tôi.)

 

Việc xây dựng danh tính tự tham chiếu này là một hình thức tiêu dùng Meta (siêu dư liệu). Đó là việc chấp nhận một nhân cách, tâm lý tương đương với một bức ảnh tự sướng. Bạn có thể nói rằng công cụ Phật giáo là một sự đối nghịch mỉa mai đối với văn hóa tiêu dùng, giống như cách ăn mặc hay cắm trại, điều này báo hiệu cho chúng ta sự thừa nhận và vượt qua những mâu thuẫn vốn có trong nền kinh tế trao đổi tư bản giai đoạn cuối của chúng ta. Tuy nhiên, tôi không mua nó.

 

Và khi các đồ vật và trang phục nghi lễ Phật giáo, là một phần của bộ đồng phục dễ nhận biết, xác định một vai trò xã hội biểu tượng thì sao? Tất cả những chiếc mũ giáo phẩm Phật giáo Tây Tạng lạ mắt đó đều xuất hiện trong tâm trí. Đó có phải là chiếc mũ ban cho người có thẩm quyền, hay chính quyền cho người ta có quyền đội chiếc mũ? Con người đã tạo ra một loạt sản phẩm may mặc chóng mặt để báo hiệu sự khác biệt tinh tế trong động lực học quyền lực của thể chế - trong trường hợp của chúng ta, một ma trận xem ai là người Giác ngộ hơn và theo cách nào. Ngay cả những ‘hành giả Mật thừa’ (ngakpa hay yogi) với khăn choàng trắng và áo choàng đại diện cũng là một phần của hệ thống, mặc dù đồng phục của họ cho biết trạng thái của họ là “bên ngoài”. Quả thực hiếm có tìm được một người đàn ông đích thực không có đẳng cấp. Khi tôi nhìn thấy Kalu Rinpoche đội chiếc mũ Gampopa, tôi đã kinh ngạc. Khi tôi thấy Đức Karmapa thứ 16 ban quán đỉnh Mũ Đen, tôi đã được vận chuyển. Một cái gì đó khác đã xảy ra ở đó với những đồ vật đó.

 

Những hiện vật Phật giáo trong các Viện bảo tàng đưa lên một cấp độ hoàn toàn khác. Trong tác phẩm nêu trên “Niềm Khát vọng: Tường thuật về Bộ Sưu tập, Quà Lưu niệm với Không gian Rộng mở và Thu hẹp” (On Longing: Narrations of the Miniature, the Gigantic, the Souvenir, the Collection), mô tả bộ sưu tập như một thiên đàng tiêu dùng, nơi ý nghĩa nội tại của một vật thể được thăng hoa thành giá trị hiển thị trong hệ thống biểu tượng của người sưu tập. Đó là tất cả về tổ chức và phân loại, trình bày câu chuyện đó như một đại diện chuẩn tắc của thực tế.

 

Thật vậy, thậm chí có cả Tạp chí Văn hóa Vật thể được bình duyệt dành riêng cho các lý thuyết về thu thập. Đây là lý do tại sao chúng tôi cảm thấy căng thẳng khi nhìn thấy các di tích và hiện vật Phật giáo trong một Viện bảo tàng, được tiêu thụ như một tác phẩm nghệ thuật, được làm trung gian bởi các nhãn hiệu, và lời giải thích do những người quản lý cung cấp (và như vậy thể hiện thế giới quan của Viện bảo tàng). Cũng xin lưu ý rằng, chín phần mười bộ sưu tập của Bảo tàng thường không xuất hiện trong các kho lưu trữ có giới hạn truy cập.

 

Tôi đã trải nghiệm hiệu ứng Bảo tàng trên quy mô lớn bởi Thánh địa Phật giáo cổ đại Borobudur tại Indonesia, Di sản Thế giới. Sự tách biệt của Thánh địa Phật giáo lớn nhất thế giới khỏi chức năng thiêng liêng của nó, là không thể tránh khỏi về mặt hiển nhiên khi người ta trải nghiệm những bức tượng bị chặt đầu (khoảng 504 bức tượng Phật, hết một nửa trong số đó bị mất đầu – dấu tích của việc bị cướp phá và được đưa đến các bảo tàng xa xôi trong thế kỷ 19 ở thời kỳ thuộc địa), những đoàn xe buýt du lịch Nhật Bản, các bảng chỉ dẫn giải thích, các ấn phẩm đa ngôn ngữ để bán, và găng tay của các nhà cung cấp áo phông, và đồ trang sức đổ chuông trên trang web. (Chiếc áo phông lưu niệm mà tôi mua trên trang web từ lâu đã bị thu nhỏ và vụn, nhưng những ký ức vẫn còn). Guru Puja (hay Lama Chöpa, là một thực hành bao gồm việc cúng dường và khẩn cầu nguồn cảm hứng từ Đạo sư Tâm linh), tôi tại một nơi hẻo lánh ở lưng chừng bên pho tượng Phật A Di Đà và Mạn Đà La, cảm thấy giống như một hành động khơi dậy sự khai hoang.

 

Vào năm 2015, sau hành trình 15 năm, chuyến du hành từ bi của Đức Phật tương lai Di Lặc do Lama Zopa tổ chức, đã kết thúc và ổn định để trưng bày vĩnh viễn tại hai địa điểm ở Ấn Độ. Chuyến hành hương chiêm bái bao gồm hơn 3.000 viên ngọc xá lợi, và các đồ vật nghi lễ cúng Đức Phật Bản Sư Thích Ca Mâu Ni và 44 ngôi già lam tự viện Phật giáo. Tôi đã tham dự nhiều dịp khác nhau khi đến Toronto, Canada. Giống như các mảnh của Thập tự giá thật, hoặc Tấm vải liệm của Turin (một tấm vải lanh mang hình ảnh của một người đàn ông dường như đã bị chấn thương bởi các tác nhân vật lý. Các dấu tích phù hợp với việc bị đóng đinh. Nó hiện được lưu giữ trong nhà nguyện hoàng gia của Nhà thờ chính tòa Torino, miền bắc nước Ý), được tạo ra những di vật này, thu thập và sau đó được du khách “tiêu thụ” trong bầu không khí tôn kính và hứa hẹn sâu sắc. Một trải nghiệm khác tập trung vào đối tượng như thế này, là chuyến du hành quanh thế giới của Đức Phật vì Hòa bình Thế giới – các mô hình khắc tượng Phật được giám đốc tinh thần của công trình khắc tượng là ngài Lama Zopa Rinpoche đích thân kiểm soát và phê chuẩn – đã kết thúc với sắc pháp vĩnh viễn được trưng bày tại Úc.

 

Trong cả hai trường hợp, trải nghiệm là phản đề chính xác của việc đi đến Bảo tàng: Những người tham dự đến với ba mục tiêu là: Đánh thức Đức tin, Khẳng định lại ý định và Tạo ra Phúc Cát tường. Tôi nghi ngờ bất kỳ ai đã thất vọng.

 

* Tác giả John Harvey Negru, một học giả Phật giáo nổi tiếng người Canada, ông ảnh hưởng về nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo châu Á, có thể được tìm thấy trong bộ sưu tập lưu trữ tại  Phòng trưng bày Nghệ thuật Ontario - Art Gallery of Ontario - Toronto – Canada và Khoa Mỹ thuật của Đại học York (York University), là trường đại học nghiên cứu công lập ở Toronto, Ontario, Canada.

 

Tác giả: John Harvey Negru

Biên dịch: Thích Vân Phong

(Nguồn: 佛門 網)






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/08/2010(Xem: 17563)
1. Dạy con trẻ vạn lời hay, không bằng nửa ngày làm gương, làm mẫu 2. Cha mẹ chỉ biết cho, chẳng biết đòi; Con cái thích vòi mà không biết trả 3. Dâu, rể tốt cha mẹ được đề cao; Con cái hỗn hào đứt mười khúc ruột 4. Cha mẹ dạy điều hay, kêu lắm lời, bước chân vào đời ngớ nga ngớ ngẩn 5. Cha nỡ coi khinh, mẹ dám coi thường, bước chân ra đường không trộm thì cướp 6. Cha mẹ ngồi đấy không hỏi, không han, bước vào cơ quan cúi chào thủ trưởng 7. Con trai chào trăm câu không bằng nàng dâu một lời thăm hỏi 8. Khôn đừng cãi người già, chớ có dại mà chửi nhau với trẻ
27/08/2010(Xem: 20952)
Còn nghĩ rằng “Đời là thế, vốn dĩ đời là thế”, “giữa cuộc đời cũng chỉ thế mà thôi”. Trước hiên nhà, lá rụng đầy sân, Chớm lộc mới, ngát hương đường cũ. Vậy nên: Hương xưa còn đọng trên đường, Ngàn lau lách ấy xem dường trinh nguyên. Âm ba tiếng hát đỗ quyên, Lung linh trăng nước xe duyên sơn hà.
26/08/2010(Xem: 13790)
Nghe đài, đọc báo, xem sách “HOÀNG SA – TRƯỜNG SA” âm từ bốn chữ mà sao thấy nao lòng. Có lẽ tình yêu thương Tổ quốc, đã ăn sâu vào trong máu, trong xương. Dù chưa thấy Trường Sa, Hoàng Sa nhưng khi nghe bãi cát vàng dậy sóng càng muốn biết cho tường. Tôi ước ao được thấy Trường Sa, Hoàng Sa và đã thấy được Trường Sa, dù chưa hết, biết chưa khắp, nhưng đã tận mắt, đã đặt chân lên Trường Sa đảo chìm, đảo nổi, nhà giàn. Thấy gì, biết gì, nghe gì chỉ một chuyến đi 12 ngày tạm đủ cho một lão già 76 tuổi muốn đem hai chữ Hoàng Sa, Trường Sa vào hồn.
22/08/2010(Xem: 6188)
Khi có mặt trên cuộc đời này, tiếng gọi đầu tiên mà ta gọi đó là Mẹ, tình thương mà ta cảm nhận được trước nhất là tình của Mẹ, hơi ấm nồng nàn làm cho ta cảm thấy không lạnh lẽo giữa cuộc đời được toả ra từ lòng Mẹ, âm thanh mà ta nhận được khi chào đời là hai tiếng “con yêu” chất liệu nuôi lớn ta ngọt ngào dòng sữa mẹ như cam lộ thiên thần dâng cúng Phạm Thiên.
21/08/2010(Xem: 6179)
NHỮNG LỜI DẠY THỰC TIỄN CỦA ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA Tựasách : «108 perles de sagesse du Dalai-Lama pour parvenir à la sérénité» Nhàxuất bản: Presse de la Renaissance, Paris 2006. Do nữ ký giả Phật tử CathérineBarry tuyển chọn - Chuyển ngữ Pháp-Việt : HoangPhong
19/08/2010(Xem: 7122)
Tại Keelung, Đài Loan có một cửa hàng với cái tên là “Ngộ Duyên Hào”. Ông chủ Lâm vốn là một người rất tử tế, xung quanh khu vực ông sống có rất nhiều những cư dân đánh cá hay kiếm sống quanh đó.
09/08/2010(Xem: 6992)
Câu chuyện dưới đây thật xa xưa, có lẽđã xảy ra từ thời Trung cổ tại Âu châu và cả nhiều thế kỷ trước đó tại Trung đông.Tuy nhiên chúng ta cũng có thể khởi đầu câu chuyện với một sự kiện chính xác hơnxảy ra vào thế kỷ XVI khi tòa thánh La-mã phong thánh cho hai vị mang tên là Barlaamvà Joasaph, và chọn ngày 27 tháng 11 mỗi năm để làm ngày tưởng niệm họ. Riêng Chínhthống giáo (Orthodoxe) thì chọn ngày 26 tháng 8.
04/08/2010(Xem: 7557)
CáchTrợ Niệm Cho Người Khi Lâm Chung, HT. Tịnh Không, ThíchNhuận Nghi dịch
27/07/2010(Xem: 7054)
D.T. Suzuki (1870 -1966) thườngđược xem là một trong những vị thiền sư lớn nhất của thế kỷ XX. Thật ra thì rấtkhó hay không thể để chúng ta có thể đo lường được chiều sâu của sự giác ngộtrong tâm thức của các vị thiền sư, vì việc đó vượt ra khỏi khả năng của chúngta, và vì thế cũng rất khó hoặc không thể nào đánh giá họ được. Chúng ta chỉ cóthể dựa vào sự bén nhạy của lòng mình để ngưỡng mộ họ mà thôi.
19/07/2010(Xem: 6889)
Đất nước ta có một lịch sử bốn ngàn năm văn hiến, Phật giáo Viẹt Nam có bề dày lịch sử hơn hai ngàn năm hoằng pháp độ sanh. Kể từ ngày du nhập đến nay, với tinh thần khế lý, khế cơ, khế thời, Đạo Phật đã thực sự hoà nhập cùng với đà phát triển của đất nước và dân tộc. Trải qua bao cuộc biến thiên, Phật Giáo Việt Nam cũng thăng trầm theo những thời kỳ thịnh suy của dân tộc, nhưng không vì thế mà việc hướng dẫn các giới Phật tử tại gia bị lãng quên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567