Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đánh giá Tác phẩm “Phát triển mạnh trong Khủng hoảng Phật giáo và sự Xáo trộn Chính trị tại Trung Quốc 1522 – 1620”

29/09/202007:49(Xem: 5606)
Đánh giá Tác phẩm “Phát triển mạnh trong Khủng hoảng Phật giáo và sự Xáo trộn Chính trị tại Trung Quốc 1522 – 1620”

Đánh giá Tác phẩm “Phát triển mạnh trong Khủng hoảng

Phật giáo và sự Xáo trộn Chính trị tại Trung Quốc 1522 – 1620”

(Book Review: Thriving in Crisis: Buddhism and Political Disruption in China, 1522–1620)

 Hình 1 Tác phẩm Phát triển mạnh trong Khủng hoảng Phật giáo và sự Xáo trộn Chính trị tại Trung Quốc

Hình 1: Tác phẩm “Phát triển mạnh trong Khủng hoảng Phật giáo và sự Xáo trộn Chính trị tại Trung Quốc 19522 – 1620”. Ảnh: columbia.edu

 

Trong khi ý tưởng về Phật giáo đã đạt đến một vị thế rõ ràng trong triều đại nhà Minh (1368-1644) đã lỗi thời trong giới học giả, nó vẫn tồn tại bởi vì vẫn còn tồn tại quan niệm phổ biến, ngay cả trong giới Phật giáo đương đại, rằng Phật giáo đã đạt đến đỉnh cao về trí tuệ, và triết học vào triều đại nhà Đường (618-907), trước khi bị tê liệt bởi nhiều cuộc khủng hoảng và đàn áp, sau đó suy tàn vào triều đại nhà Tống (960-1279) và kế đến triều đại nhà Minh. Đây không phải là hoàn toàn nhầm lẫn, cũng không phải là đầy đủ câu chuyện. Nhà xuất bản Đại học Columbia một lần nữa đã phát hành một nghiên cứu đột phá, có thể thay đổi sự hiểu biết của học giả - và có lẽ là nhiều năm sau, sự hiểu biết phổ biến – về kinh nghiệm của Phật giáo vào triều đại nhà Minh.

 

Cuốn sách của tác giả Trương Đức Duy (張德維) “Phát triển mạnh trong Khủng hoảng Phật giáo và sự Xáo trộn Chính trị tại Trung Quốc 19522 – 1620” (Book Review: Thriving in Crisis: Buddhism and Political Disruption in China, 1522–1620; 逆勢而起: 1522-1620 年間中國佛教與政治的動盪), một cuốn sách du lịch với mở đầu một câu hỏi: làm thế nào mà cuộc đổi mới Phật giáo cuối triều đại nhà Minh trở nên khả thi, sau một thời kỳ trì trệ hơn 100 năm và xem xét “Sự hồi sinh từ cả quan điểm tôn giáo và phi tôn giáo để tìm kiếm những động lực và động lực cần thiết”. (trang 7)

 

Phương pháp luận của tác giả Trương Đức Duy (張德維) rất đơn giản, nhưng chặt chẽ và tỉ mỉ vì ông lấy cảm hứng từ trường phái sử học Annales (Biên niên Sử) của Pháp:

 

“Thông qua việc kiểm tra những gì của nguồn gốc, cuối cùng sẽ phát triển thành một sự đổi mới toàn diện, hy vọng là tạo ra một bức tranh và khi thời gian chặt chẽ hơn nhiều về sự hồi sinh tổng thể. Hơn nữa, để nhắc lại sự nhấn mạnh của trường phái sử học Annales (Biên niên Sử) của Pháp về các yếu tố cấu trúc, nghiên cứu này xem xét thời kỳ đầu của triều đại nhà Minh, khi các hệ tư tưởng nhà nước được thiết lập, và các chính sách Phật giáo được thiết kế. Do đó, nó tiếp cận sự đổi mới từ ba khía cạnh của khoảng 50, 100 và 200 năm”. (trang 12)

 

Thông qua lăng kính phương pháp luận này, tác giả Trương Đức Duy (張德維) bắt đầu và thành công trong việc kết hợp tường thuật vĩ mô, và phân tích lịch sử vi mô, cùng với khoa học chính trị, để kể một câu chuyện hấp dẫn và thuyết phục về công cuộc đổi mới Phật giáo trong thời đại nhà Minh Trung Hoa.

 

Cuốn sách được phân chia theo các phần tập trung vào các trường phái, và cá nhân cụ thể đã đinh hình quỹ đạo của thể chế Phật giáo thời đại nhà Minh. Ví dụ, chương hai và ba lần lượt đề cập đến Minh Thế Tông (明世宗, tại vị 1521-1567), vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Minh trong lịch sử Trung Hoa, một trong những vị Hoàng đế Trung Hoa tại vị trên ngai vàng lâu nhất và Hiếu Định Hoàng Thái hậu (孝定皇太后, 1540-1614). Bà là vị Hoàng Thái hậu tại vị cuối cùng theo lịch sử Nhà Minh, và đồng thời là Hoàng Thái hậu người Hán cuối cùng.

 

Các chương 4, 5, 6 và 7 lần lượt thảo luận về sự tham gia vào Phật giáo của các hoạn quan, học giả-quan chức, các vị tăng sĩ Phật giáo uyên thâm lỗi lạc và các ngôi già lam tự viện Phật giáo: Tất cả các nhóm lợi ích và thành phần có ảnh hưởng theo ý riêng của họ và thời hậu Minh.

 

Cuối cùng, Chương 8, thảo luận về một đòn đặc biệt gây tổn hại cho trật tự Phật giáo ở Trung Hoa: Việc mất Kinh đô Bắc Kinh như một cơ sở quyền lực. Trong mỗi chương, sự chú ý đáng kể được tập trung vào các cá nhân cụ thể, và cách họ thúc đẩy sự phát triển của lợi ích nhóm của họ. Từ rất lâu, trước khi thực sự phát đạt như trong tiêu đề của cuốn sách, vào triều đại của Hoàng đế Minh Thế Tông, cộng đồng Phật giáo đã chịu trận đòn lâu dài vốn đã có vị thế bấp bênh:

 

“Sự khắc nghiệt của Hoàng đế Minh Thế Tông đối với Phật giáo, phản ánh sở thích tôn giáo của ông với tư cách cá nhân, nhưng với tư cách là một vị Đế vương, ông không thay đổi vị trí đã được thiết lập của nhà nước, ngoại trừ quan trọng là đóng cửa lễ tấn phong. Lòng sùng đạo tôn giáo, tính toán chính trị, lý tưởng văn hóa và đạo đức được nhận thức đều có tác dụng đằng sau sự ác cảm của ông đối với Phật giáo. Trong một số trường hợp, đáng chú ý với mục tiêu của ông không phải là Phật giáo nói chung mà là các nhóm cụ thể như ni cô. . .

 

Vừa là vị Hoàng đế chỉ huy thần dân tuân theo mệnh lệnh của mình, vừa là hình mẫu mời gọi người khác tự nguyện làm theo, Hoàng đế Minh Thế Tông đã có ảnh hưởng sâu sắc đến Phật giáo ở thời đại của ông. Trong nội cung, ông đã thành công trong việc kìm hãm lòng nhiệt thành trong triều đại với giới tinh hoa tôn kính Đạo Phật. Trong xã hội địa phương bên ngoài kinh đô, ảnh hưởng sự ác cảm của ông đối với Phật giáo thường được tăng cường khi các quan chức địa phương trình nghị sự của riêng họ. Tình trạng này kéo dài thời gian gần nửa thế kỷ và do đó đã tạo nên một môi trường nói chung là thù địch với Phật giáo”. (Trang 5)

 Hình 2 Minh Thế Tông Hoàng đế Vạn Lịch

Hình 2: Minh Thế Tông (明世宗, Hoàng đế Vạn Lịch, trị vì 1572-1620). Ảnh: geissfoundation.us

 

Ngược lại, Hiếu Định Hoàng Thái hậu (孝定皇太后) hiền mẫu của Minh Thế Tông (明世宗, Hoàng đế Vạn Lịch, trị vì 1572-1620), là một vị nữ cư sĩ Hộ pháp bảo trợ mạnh mẽ và chân thành với Phật giáo. Tác giả Trương Đức Duy (張德維) lưu ý rằng, dựa trên đối chiếu bằng văn bản, Hiếu Định Hoàng Thái hậu (孝定皇太后, 1546-1614) đóng góp cho Phật giáo thông qua ba cách: “Hỗ trợ tài chính cho các ngôi già lam tự viện Phật giáo, phân phối kinh điển Phật giáo và liên kết trực tiếp với chư tôn tịnh đức tăng già Phật giáo”. (trang 67).

 

Hiếu Định Hoàng Thái hậu (孝定皇太后) “đã thu hút được sự ủng hộ và bảo trợ lớn cho Phật giáo trong suốt hai thập kỷ đầu, nhờ một số lợi thế nhất định nhưng sau đó phải chịu những hạn chế nghiêm trọng, bởi liên quan đến hai điểm yếu: thân phận của Hiếu Định Hoàng Thái hậu (孝定皇太后) như một phụ nữ cung đình, và nhà vua xem Phật giáo là một chủ nghĩa dị đoan”. (trang 88)

 

Cùng với hành trình chính trị đầy biến động, liên tục thay đổi này là các hoạn quan, những người có quyền lực, theo Tác giả Trương Đức Duy (張德維) “Về cơ bản phụ thuộc vào sự sủng ái của vị Hoàng đế” và do đó “tỏ ra nhạy cảm nhất với những thay đổi trong môi trường chính trị. Họ nhanh chóng điều chỉnh với lập trường phù hợp để bảo vệ Hoàng đế, nếu không tối đa hóa lợi ích của chính họ. Vì đã có những thay đổi mạnh mẽ trong cách các vị vua giải quyết các vấn đề Phật giáo trong thời đại của Minh Thế Tông (明世宗, Hoàng đế Vạn Lịch, các hoạn quan được ưu tiên dành cho những người cai trị hơn sở thích của họ, khiến mối quan hệ của họ với Phật giáo trở nên phức tạp”. Nhìn chung, họ ủng hộ Phật giáo, và với tư cách là một nhóm lớn, họ có thể “Huy động một lực lượng lớn các nguồn lực để ủng hộ Phật giáo. Nhưng sự mong manh vốn có trong mối quan hệ gia đình giả tạo là hiển nhiên, và không thể tránh khỏi. Một khi bản quan (本官) có ảnh hưởng khi qua đời hoặc mất quyền lực, điều đó thường có nghĩa là sự kết thúc của các nhóm được xây dựng xung quanh ông ta”. (Trang 105)

 

Một trong những gương mặt chính trị của tầng lớp chính trị Trung Hoa, học giả-quan chức, cũng có mối quan hệ không rõ ràng với Phật giáo. “Theo ngữ cảnh, chính sách bài trừ Phật giáo của Minh Thế Tông (明世宗, Hoàng đế Vạn Lịch, trị vì 1572-1620), đã góp phần rất lớn trong việc các học giả-quan chức thờ ơ, hoặc thậm chí xâm phạm Phật giáo, trong khi sự xuất hiện của Hiếu Định Hoàng Thái hậu (孝定皇太后) trên chính trường, đã khơi dậy nhiệt tình trong những năm đầu niên hiệu Vạn Lịch”. Mối quan hệ giữa Phật giáo thể chế và giới tinh hoa quan liêu này, là một trong những sự củng cố lẫn nhau trong thời kỳ tốt đẹp, hoặc một vòng luẩn quẩn của sự từ bỏ ý thức hệ (bởi các học giả-quan chức) và sự phụ thuộc quá mức vào ngày càng ít người bảo trợ (bởi các tu viện Phật giáo) trong thời kỳ tồi tệ.

 

Tác giả Trương Đức Duy (張德維) viết: “Như ẩn dụ hai đầu về con ngựa bị bắt, Phật giáo không bao giờ có toàn quyền trong việc xác định mối quan hệ của mình với học giả-quan chức. Điều gì có thể xảy ra với Phật giáo nếu các học giả-quan chức, những người đóng vai trò là nguồn lực đáng kể về trí tuệ, xã hội và kinh tế, hoàn toàn trở lại với Nho giáo, và cho nhà nước với cái giá phải trả là Phật giáo?”. (trang 155)

 Hinh 3Hiếu Định Hoàng Thái hậu (孝定皇太后, 1546-1614)

Hình 3: Hiếu Định Hoàng Thái hậu (孝定皇太后, 1546-1614). Ảnh: 維基百科


Phe quyền lực cuối cùng và quan trọng nhất là Tăng đoàn Phật giáo tại các tu viện, những người bị ảnh hưởng mà tác giả Trương Đức Duy (張德維) xác định là Thiền sư Hám Sơn Đức Thanh (憨山德清, 1546-1623), vị Thánh tăng Phật giáo trong Thiền tông và Tịnh độ tông, vị Thánh tăng để lại rất nhiều lời giảng dạy Phật pháp cho mọi tầng lớp trong xã hội thời bấy giờ. Sau khi nhập diệt, Ngài đã lưu lại toàn thân Xá Lợi (Kim Cương thân bất hoại), hiện thờ phụng tại Tổ đình Nam Hoa Thiền Tự, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc; Thiền sư Diệu Phong Phúc Đăng (妙峰福登, 1540–1612), vị cao tăng Phật giáo nổi tiếng, Ngài được sự bảo trợ trong 30 năm của Hiếu Định Hoàng Thái hậu (孝定皇太后) vào thời kỳ trị vì của Minh Thế Tông Hoàng đế Vạn Lịch và Thiền sư Chân Khả Tử Bách (紫栢真可, 1543–1604). Bất chấp sức hút và tham vọng của họ:

“Tất cả họ đều phải chịu những hạn chế về cơ cấu đối với Phật giáo, có thể bắt nguồn từ đầu thời nhà Minh. Theo lệnh của họ, không ai trong số họ có đủ nguồn lực, điều này là do nền kinh tế của các cơ sở tự viện Phật giáo suy yếu rất nhiều. Không có hành động nào được dàn xếp ở cấp cao hơn khi họ tham gia vào các dự án quy mô lớn này. Cơ hội thành công đã giảm đáng kể, nhưng thiếu sự cộng tác này ít liên quan đến các lựa chọn cá nhân của họ hơn là do sự mất quyền tự chủ về thể chế tăng đoàn Phật giáo. . . Mặc dù Phật giáo đôi khi tỏ ra đầy hứa hẹn, nhưng vị thế yếu ớt và bên lề của nó trong cơ cấu quyền lực hầu như không được cải thiện. Trong bối cảnh này, những vị tăng sĩ Phật giáo đầy tham vọng này đã phải phụ thuộc nhiều vào thế tục, điều khiến họ dễ bị ảnh hưởng bởi chính trị đương thời”. (trang 197)

 

Chương chính cuối cùng của tác giả Trương Đức Duy (張德維), khám phá cái nhìn sâu sắc đáng kể mà các ngôi già lam tự viện Phật giáo ở khu vực Bắc Kinh, có thể cung cấp về vận may của Phật giáo trong mỗi thời kỳ suy tàn, hoặc phục hưng đáng kể vào thời đại nhà Minh. Suy nghĩ cuối cùng của ông trong kết luận của ông là cực kỳ sâu sắc nếu tỉnh táo: bởi những lý do khác nhau và phức tạp, mặc dù có nhiều nỗ lực phục hưng của các lực lượng hoàng gia, triều đình, quan liêu và cơ sở tự viện Phật giáo thời đại nhà Minh, “công cuộc đổi mới Phật giáo đã kết thúc vào đầu triều đại nhà Thanh, và sau đó vẫn còn ở mức xuống thấp”. (trang 247)

 

Tác phẩm này là một chuyên khảo cao cấp, cung cấp một nền tảng cập nhật và toàn diện, để bối cảnh hóa những điểm yếu mà Phật giáo đã trở nên dễ mắc phải trong thời đại nhà Minh, kéo dài đến triều đại nhà Thanh.

 

Nhận thức về tình trạng trì trệ của Phật giáo trong hai triều đại này, có nguồn gốc sâu xa từ thời đại của Minh Thế Tông, Hoàng đế Vạn Lịch trị vì. Chính vì danh tiếng không mấy tốt đẹp này, mà làn sóng phục hưng Phật giáo thực sự và mạnh mẽ, từ triều đại của Minh Thế Tông, Hoàng đế Vạn Lịch trở đi, cần được chú ý khẩn cấp, và có hệ thống. Nếu bỏ qua nó sẽ là một điều bất lợi đối với giai đoạn đó của lịch sử Phật giáo Trung Hoa, thì chúng ta cũng phải xem xét các giai đoạn suy tàn hay quán tính, chúng ta cũng nên quan tâm đến những thời điểm mà Phật giáo vàng son trở lại, bất kể sự tồn tại ngắn ngủi như thế nào.

 

Thích Vân Phong biên tập

(Nguồn: 佛門網)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/08/2020(Xem: 5952)
Giáo sư Lewis Lancaster sinh ngày 27 tháng 10 năm 1932, Giáo sư danh dự của Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Đông Á (East Asian Languages and Cultures) tại Đại học California, Berkeley, Hoa Kỳ, đã từng là Chủ tịch, Giáo sư phụ trợ, Chủ tịch Hội đồng xét Luận án (Chair of the Dissertation Committee) của đại học University of The West (California) từ năm 1992. Ông còn là Giáo sư Danh dự của khoa Ngôn ngữ Đông Á (East Asian Languages), Khoa trưởng Khoa Phật học (Buddhist Studies) thuộc đại học UC Berkeley; và đã từng giữ chức vụ Viện trưởng (2004-2006).
02/08/2020(Xem: 6286)
Trong khoảng chục ngày nay, các báo Việt Nam đưa tin toàn chuyện dịch bệnh CoViD-19 , vì nó đang đe dọa trở lại sau một thời gian 3 tháng tạm thời im ắng. Ngay lúc này, giở ra đọc lại sách Chớ quên mình là nước - Tạp văn, khảo luận về nước và môi trường của Văn Công Tuấn mà tôi đã được tác giả gởi tặng từ một tháng trước, ý thức về tầm quan trọng đối với môi trường sống của tôi càng trở nên đậm nét.
02/08/2020(Xem: 8453)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian này vì một mục đích duy nhất làm cho tất cả chúng sanh được giác ngộ, thoát khỏi khổ đau được an lạc giải thoát. Vì thế, trong kinh nói: “Như Lai thị hiện nơi cuộc đời này, là để xua tan bóng tối vô minh và chỉ cho nhân loại con đường đi đến sự đoạn tận của khổ đau”.
01/08/2020(Xem: 6141)
Cư sĩ Sandy Huntington sinh ngày 24 tháng 2 năm 1949, ông sinh ra và trưởng thành tại East Lansing, Michigan, một thành phố thuộc quận quận trong tiểu bang Michigan, Hoa Kỳ và học đại tại bang Michigan. Sau khi tốt nghiệp đại học, ông đi du lịch đến Na Uy, học tiếng Na Uy và bắt đầu say mê học ngôn ngữ và văn học suốt đời.
01/08/2020(Xem: 5126)
Nói và nghe là hai yếu tố quan trọng trong đời sống con người.Từ thời cổ xưa con người sống trong hang đá rừng rậm chưa có chữ viết chưa có lời nói, nên con người phát biểu tình cảm hay ý muốn bằng âm thanhgầm gừ,ậm ừ … từ trong cổ họng, hoặcbiểu lộ bản năng cảm xúc bằngánh mắt hay cử chỉ quơ tay động chân.Đời sống của con người lúc ấy không mấy khác với đời sống của thú rừng hoang dã.
29/07/2020(Xem: 6700)
Tại Việt Nam, nơi có dân số khoảng 97 triệu nhân khẩu, Vương quốc Campuchia với dân số khoảng 16,24 người, đều không có trường hợp tử vong do đại dịch Virus corona chủng mới. Tại Vương quốc Thái lan, nơi có dân số 70 triệu người, có 58 người tử vong do nhiễm Covid-19 (Lưu ý: So với Vương quốc Anh, nơi có dân số gần 66 triệu người, đã có hơn 45.000 người chết). Về việc phòng chống đại dịch Virus corona, tại sao các quốc gia nêu trên lại hoạt động phòng chống đại dịch tốt hơn các quốc gia khác trên thế giới? Họ đều là những quốc gia Phật giáo. Sự thành công của công tác phòng chống đại dịch hiểm ác này có liên quan gì đến văn hóa Phật giáo bản địa không?
10/07/2020(Xem: 8280)
Hồi tháng Giêng năm nay, ông Mohan Paswan, một tài xế xe thồ tuk-tuk, bị thương trong một tai nạn giao thông. Ông tạm trú ở Gurugram, ngoại ô thủ đô New Delhi, nơi ông suốt ngày hành nghề chở khách bằng chiếc xe cà tàng có gắn máy. Tiền kiếm được ông gửi về quê nuôi vợ con ở Bihar, tiểu bang miền đông Ấn Độ, cách xa đến 700 dặm (trên 1.100 km.) Sau tai nạn, ông Paswan không thể tiếp tục chạy xe để kiếm tiền, không những thế ông cần sự săn sóc. Cô con gái ông, Jyoti Kumari, 15 tuổi, nghe tin liền nhảy lên tàu lửa đi tìm cha rồi ở cạnh ông để chăm lo. Thế rồi cơn đại dịch xảy ra.
09/07/2020(Xem: 7330)
Sáu Đại Tông Chỉ của Vạn Phật Thánh Thành là mục tiêu tu hành: Không tranh, không tham, không mong cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không nói dối. Những điều này là căn bản làm người, là nền tảng tu hành, và là tiêu chuẩn của chánh quyền. Sáu Đại Tông Chỉ này là sáu con đường sáng. Nếu nhớ được sáu đại tông chỉ này, quý vị có thể thành Phật. Tôi đưa ra sáu đại tông chỉ này cho những người muốn thành Phật, thành Bồ Tát, muốn thành Thanh Văn, A La Hán. Đây là những tông chỉ quan trọng nhất. Nếu thực hành được, quý vị có thể dùng suốt đời, mà vẫn không tận dụng hết được!
08/07/2020(Xem: 6477)
Không còn nghi ngờ gì nữa, khẩu trang đã đóng một vai trò trung tâm trong các chiến lược đối đầu với dịch bệnh COVID-19 của chúng ta. Nó không chỉ giúp ngăn ngừa SARS-CoV-2 mà còn nhiều loại virus và vi khuẩn khác. Cũng không khó để nhận ra rằng khẩu trang đã và đang có xu hướng trở thành quà tặng, chương trình khuyến mãi của nhiều hoạt động kinh doanh. Chạy đua xu hướng "bán hàng tặng kèm khẩu trang", trên các website thương mại điện tử, nhiều gian hàng cũng đua nhau áp dụng hình thức kinh doanh này. Kết quả như thế nào? Nhiều gian hàng đã thấy được hiệu quả rõ rệt khi lượt khách đặt mua tăng mạnh, họ đã vượt qua cơn ế ẩm nhờ tặng kèm khẩu trang. Tương tự, các nhà hàng, tiệm nails, cửa hàng…đều đang theo xu hướng tặng khẩu trang cho khách, vừa để tuân theo trật tự “bình thường mới” trong xã hội, vừa đáp ứng nhu cầu bảo vệ sức khỏe của cả khách hàng và chính mình. Thử tưởng tượng, quý vị bước vào một tiệm nails nhưng quên mang theo khẩu trang, không sao, nhân viên mang cho quý vị m
05/07/2020(Xem: 4984)
Đức Đạt Lai Lạt Ma, Tenzin Gyatso, là lãnh tụ tinh thần và thế quyền của dân tộc Tây Tạng. Ngài sinh vào ngày 6 tháng Bảy năm 1935, trong một ngôi làng gọi là Taktser ở đông bắc Tây Tạng, trong một gia đình nông dân. Đức Thánh Thiện được công nhận vào lúc hai tuổi, phù hợp với truyền thống Tây Tạng, như tái sanh của người tiền nhiệm, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13. Đức Đạt Lai Lạt Ma là hiện thân của Đức Phật Từ Bi, nguyện tái sanh để phụng sự loài người. Đạt Lai Lạt Ma có nghĩa là “Đại dương của trí tuệ.” Người Tây Tạng thường liên hệ đến Đức Thánh Thiện như Yeshe Norbu, “Viên ngọc ước,” hay đơn giản là Kundun, có nghĩa là “Thị Hiện.”
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]