Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mật hạnh là gì? bài giảng của HT Tinh Vân

04/09/202013:01(Xem: 8374)
Mật hạnh là gì? bài giảng của HT Tinh Vân


ht tinh van-14


Mật hạnh là gì?

Lời dạy của Đức Đại Lão Hòa Thượng Tinh Vân
Do Nhã Tuệ dịch sang tiếng Việt và Diệu Danh diễn đọc


 




Mật hạnh là pháp môn bất nhị tăng thêm phẩm hạnh, viên mãn đạo đức. Ví như ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh của Đức Phật; mỗi ngày cầm bình bát khất thực, rửa chân ngồi thiền, hành hóa thuyết pháp, khiến chúng sinh nhập Phật tri kiến, chính là mật hạnh; lại ví như La-hầu-la (Rāhula) sám hối sửa lỗi, giữ vững thanh tịnh giới hạnh, trở thành đệ nhất mật hạnh trong hàng đệ tử Phật; Đại Ca-Diếp trú ở xứ Lan-nhã, tịch tịnh thiểu dục, trên hội Linh Sơn đã diệu khế chân như pháp tính, cũng là mật hạnh; Tu-bồ-đề (Subhūti) quán không cung nghênh Phật, cũng là mật hạnh.

Những việc làm nghĩa tình của người xưa như chia cháo cứu đói, xây cầu làm đường, đào giếng lấy nước, thắp đèn dâng trà, bố thí quan tài cho người chết, cứu trợ giúp đỡ, đều là mật hạnh gieo trồng phước đức. Gọi là “lân nga bất điểm đăng, vi thử thường lưu phạn” (vì thương những con thiêu thân, không đốt đèn vào ban đêm, vì sợ chuột không có thức ăn thường để lại một ít thức ăn), tức là khắc họa (miêu tả) tốt nhất về lòng từ bi rộng khắp đối với tất cả chúng sinh hữu tình có tâm thức.

Một người nên luôn luôn tu mật hạnh. Nếu tu như thế, người ấy sẽ được lợi ích và phúc đức vô hình. Dù có thể là một bức tượng thô làm bằng củi và bùn, nó là một tượng Phật, hãy tôn kính nó. Dù có thể là một cuộn được viết một cách nghèo nàn trên giấy vàng cán đỏ, nó là kinh điển thiêng liêng, hãy tôn kính nó.


Mật hạnh được giải thích như thế nào?

 

Mật hạnh ứng xử

Thứ 1, nhẫn một câu, nhịn một lúc, nhường một bước, tha một nước, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 2, bạn lớn tôi nhỏ, bạn có tôi không, bạn đúng tôi sai, bạn tốt tôi xấu, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 3, mỗi ngày bố thí một món nhỏ, kiên trì bền bỉ, đáp tặng xã hội, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 4, không tranh công trạng, thành tựu vinh quang thuộc về đại chúng, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 5, tùy hỷ tùy duyên, giúp đỡ người khác, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 6, miệng nói lời hay, cho người tín tâm, hoan hỷ, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 7, đối với quốc gia, làm bạn không mời, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 8, đối với bạn bè, nên không nhớ nghĩ oán cừu, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 9, đối với bản thân, cần không quên sơ tâm, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 10, đối với xã hội, có thể bất biến tùy duyên, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 11, không so đo, không tính toán, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 12, gặp người phải mỉm cười, xử sự phải lịch sự, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 13, chịu thiệt không sao cả, cư xử chân thành, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 14, lúc bị chửi mắng im lặng không đáp, lúc bị đả kích tâm có thể bình tĩnh, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 15, lúc bị đố kỵ đối đãi bằng từ tâm, lúc bị gièm pha cảm niệm lòng dạ ấy, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 16, không vì tham lam mà xâm phạm người khác, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 17, không vì tỏ vẻ mình nhanh nhạy mà mỉa mai người khác, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 18, không vì thấy người khác tốt mà đố kỵ, công kích, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 19, dùng cái tâm phê phán người khác để phê phán chính mình, dùng cái tâm khoan dung bản thân để khoan dung những lỗi lầm người khác, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 20, kết rộng duyên lành, biết nghe lời phải, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 21, không vì bao che tư dục (ham muốn cá nhân) mà làm tổn thương người khác, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 22, buông bỏ chấp trước, khiêm tốn tiếp nhận những lời hay lẽ phải, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 23, cư xử chân thành, không cầu báo đáp, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 24, quan tâm đồng hương, tham gia tình nguyện viên, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 25, khi có người khác nhờ vả, phải hết lòng làm cho tới nơi tới chốn, là mật hạnh đối nhân xử thế.



Mật hạnh sinh hoạt

 

Thứ 1, mỗi khi ăn cơm đều thực hiện ba xưng niệm (tam đề), năm quán tưởng, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 2, làm việc nghỉ ngơi, sinh hoạt có quy luật, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 3, yêu quý và bảo vệ cây cối hoa cỏ, cắt tỉa tưới nước, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 4, động tác nhẹ nhàng, không làm phiền đến sự yên tĩnh của người khác, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 5, đi đứng ngồi nằm, oai nghi đoan chánh, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 6, xa rời thuốc rượu tình dục, sinh hoạt tự quản lý kiềm chế, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 7, chạy xe nhường nhau, quan tâm an toàn người đi đường, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 8, mỗi tháng ít nhất bế quan một ngày, tu trì pháp Phật, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 9, mỗi ngày làm một việc khiến người cảm động, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 10, mỗi ngày giúp người khác làm một số việc tốt, không cầu báo đáp, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 11, trước khi ngủ tụng niệm văn sám hối, tự kiểm điểm lỗi lầm của một ngày, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 12, mỗi tuần ít nhất tham gia cùng đại chúng tu chung một cây hương, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 13, học tập tiếp thu, hễ gặp việc gì hãy nhẫn nại, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 14, mỗi ngày chia sẻ hoan hỷ từ bi với mọi người, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 15, tích phước tiết kiệm, không mua linh tinh, không mua tràn lan, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 16, hơn một lần ăn chay, thì hơn một mật hạnh sinh hoạt, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 17, lúc hoan hỷ không nói nhiều, lúc giận hờn không truyền phẫn nộ đến người khác, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 18, mỗi tuần chí ít dành một tiếng để phục vụ khu vực, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 19, nương giới sinh hoạt, giữ gìn các căn, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 20, ăn uống tiết chế độ lượng, tri túc đạm bạc, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 21, thân thể ốm đau không oán trời trách đất, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 22, thay tâm, đổi tính, hồi đầu, quay người, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 23, dục vọng, tình ái, công việc, chỉ cần chính đáng, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 24, không truyền bá thị phi, không mang đau buồn tới người khác, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 25, thích ứng trong mọi hoàn cảnh, tùy duyên sinh sống, tùy tâm tự tại, tùy hỷ mà làm, là mật hạnh sinh hoạt.




Mật hạnh xử thế

 

Thứ 1, hòa hợp người khác, hài hòa đại chúng, là mật hạnh xử thế.

Thứ 2, săn sóc người khác, ta người trọn vẹn, là mật hạnh xử thế.

Thứ 3, hằng thuận người khác, coi trọng ý dân, là mật hạnh xử thế.

Thứ 4, nhân nhượng người khác, đạt đến nhận thức chung, là mật hạnh xử thế.

Thứ 5, nhắc nhở người trẻ tuổi mới học, dành cho họ những chỉ bảo, là mật hạnh xử thế.

Thứ 6, gặp được minh sư (thầy rõ sự lý) phải gần gủi học hỏi, không được làm trái, là mật hạnh xử thế.

Thứ 7, gặp hiền nhân (người tài đức) phải khiêm tốn học hỏi, là mật hạnh xử thế.

Thứ 8, phụng dưỡng cha mẹ (hai bên) phải kính thuận phụng dưỡng, là mật hạnh xử thế.

Thứ 9, đối xử chủ quản phải một lòng trung thành, là mật hạnh xử thế.

Thứ 10, thấy người nguy cấp, phải dũng cảm cứu giúp, là mật hạnh xử thế.

Thứ 11, tùy sức, tùy phận, tùy hỷ, tùy duyên bố thí gieo phước, là mật hạnh xử thế.

Thứ 12, rõ nhân biết quả, là mật hạnh xử thế.

Thứ 13, dùng lý trí tịnh hóa tình cảm, dùng từ bi thăng hoa tình cảm, là mật hạnh xử thế.

Thứ 14, dùng pháp tắc hướng dẫn tình cảm, dùng đạo đức dẫn dắt tình cảm, là mật hạnh xử thế.

Thứ 15, nhiếp tâm (chuyên chú) chánh niệm, là mật hạnh xử thế.

Thứ 16, không ẩn trốn, không biện bạch những sai trái của mình, là mật hạnh xử thế.

Thứ 17, không quan tâm chuyện phải trái, không nghe chuyện đúng sai, là mật hạnh xử thế.

Thứ 18, thận trọng lời nói việc làm, là mật hạnh xử thế.

Thứ 19, phòng xấu ngừa ác, là mật hạnh xử thế.

Thứ 20, lúc gặp mặt nên có đôi lời, tương phùng nên hỏi thăm nhau, là mật hạnh xử thể.

Thứ 21, trò chuyện cần mỉm cười, có tranh cãi chỉ một lần (không nên sa đà cãi nhau đến nỗi làm hỏng mối quan hệ đôi bên), là mật hạnh xử thế.

Thứ 22, tự nhận vô lý, người khác đều đúng, là mật hạnh xử thế.

Thứ 23, hiến tặng khí quản (sau khi chết tự nguyện hiến xác), lưu lại tiếng thơm cho đời, là mật hạnh xử thế.

Thứ 24, không ngờ vực vô căn cứ người khác, không đố kỵ người khác, là mật hạnh xử thế.

Thứ 25, hổ thẹn tất cả những thứ không biết, bất tịnh, bất thiện, là mật hạnh xử thế.



Mật hạnh tu hành

 

Thứ 1, buổi sáng tĩnh tọa một nén nhang, để suy nghĩ trong sáng, là mật hạnh tu hành.

Thứ 2, mỗi ngày đọc một quyển kinh tạng, tăng thêm văn-tư-tuệ, là mật hạnh tu hành.

Thứ 3, sáng sớm mỗi ngày tụng niệm văn kỳ nguyện, tăng thêm tâm từ bi, là mật hạnh tu hành.

Thứ 4, bất kể thân ở đâu, thường xuyên cầu phúc cho người gặp tai nạn, là mật hạnh tu hành.

Thứ 5, với pháp Phật, siêng năng tu tập không thối chuyển, là mật hạnh tu hành.

Thứ 6, với giới luật, quyết định không phạm, là mật hạnh tu hành.

Thứ 7, tâm không nghĩ bậy, chánh tuệ rõ ràng, là mật hạnh tu hành.

Thứ 8, thân không tà hạnh (tà dâm), miệng không nói lời ác, là mật hạnh tu hành.

Thứ 9, tri túc đạm bạc, vui trong tịch tịnh, là mật hạnh tu hành.

Thứ 10, không thích ồn ào, giản dị tích phước, là mật hạnh tu hành.

Thứ 11, tất cả không đeo bám, quyết chí tinh tiến, là mật hạnh tu hành.

Thứ 12, chuyên tâm vào định và tuệ, tâm không cúi nịnh, là mật hạnh tu hành.

Thứ 13, không cho mình tốt, không rêu rao lỗi người, là mật hạnh tu hành.

Thứ 14, khiêm tốn theo thầy học tập, tâm luôn ngay thẳng, là mật hạnh tu hành.

Thứ 15, vật người không tham, của mình không keo kiệt, là mật hạnh tu hành.

Thứ 16, từ bi hỷ xả, thiện chí giúp người, là mật hạnh tu hành.

Thứ 17, tin sâu Chánh pháp, luôn nghĩ các điều thiện, là mật hạnh tu hành.

Thứ 18, không sinh kiêu ngạo, khiêm cung lễ phép, là mật hạnh tu hành.

Thứ 19, kẻ oán người thân đều bình đẳng, không sinh yêu ghét, là mật hạnh tu hành.

Thứ 20, kính yêu chúng sinh hữu tình có tâm thức như mình không khác, là mật hạnh tu hành.

Thứ 21, thông tình đạt lý khách quan, không chấp kiến giải cá nhân, là mật hạnh tu hành.

Thứ 22, thường luôn từ mẫn, tùy duyên bất biến, là mật hạnh tu hành.

Thứ 23, thiền quán hành đạo, không chấp có không, là mật hạnh tu hành.

Thứ 24, tự tâm là Phật, đảm đương ngay tại bây giờ, là mật hạnh tu hành.

Thứ 25, phát tâm Bồ-đề (Bodhi), hành đạo Bồ-tát (Bodhisattva), là mật hạnh tu hành.



Trăm việc mật hạnh là biểu đối chiếu ghi chép thiện ác công tội, là tấm gương sáng cho lời nói việc làm đoan chánh, là nước pháp gội tẩy nghiệp chướng phiền não, là thang thuốc hay trị liệu khổ đau thân tâm, là thầy chỉ điểm tiền đồ tươi sáng. Mật hạnh là sự bố thí vô tướng tam luân thể không, mật hạnh là tâm tính nội học, nếu có thể hiểu được và thực hành được, thì cuộc sống có thể đạt được tịnh hóa, thăng hoa.

Nguồn:  Phật giáo và thế tục, Nxb.Từ Thư Thượng Hải, tr.162-167


Lời dạy của Đại Lão Hòa Thượng Tinh Vân

Do Nhã Tuệ dịch







dai su tinh van






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/01/2021(Xem: 9172)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5502)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5134)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5732)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6235)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5253)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
28/12/2020(Xem: 5002)
Moscow: Thuật ngữ “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” mô tả một dạng thiền cao cấp trong truyền thống Kim Cương thừa, thường được thực hành bởi các tu sĩ Phật giáo trong trạng thái quá độ sang sự chết, được gọi là trung hữu – bardo (chìa khóa để giải mã những Bí mật của Nghệ thuật sinh tử). Trạng thái nhập thiền định Phật giáo Mật tông hiếm có được gọi là “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” đã được các nhà khoa học phương Tây nghiên cứu Và Tìm hiểu trong nhiều năm, với sự lãnh đạo của Tiến sĩ ngành tâm lý và tâm thần học - Richard Davidson thuộc Đại học Wisconsin-Madison (Mỹ), người sáng lập và Chủ tịch Trung tâm Tâm Trí Lực (Center for Healthy Minds).
28/12/2020(Xem: 5025)
Phật giáo đồ các quốc gia Đông Á, thường Kỷ niệm ngày Đức Phật Nhập Niết bàn vào tháng 2 Âm lịch. Nhưng tại địa phương tôi, Trung tâm Thiền miền Bắc Carolina (the North Carolina Zen Center) lại tổ chức Kỷ niệm ngày Đức Phật Thành đạo vào tháng 12 Âm lịch, với một buổi chia sẻ Pháp thoại với Thanh thiếu niên Phật tử, một buổi lễ thắp nến lung linh, tỏa sáng ánh đạo vàng từ bi, trí tuệ, và một bữa ăn tối sau lễ Kỷ niệm.
24/12/2020(Xem: 5452)
Đức Đạt Lai Lạt Ma và nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển về biến đổi khí hậu, thiếu nữ (17 tuổi) Greta Thunberg sẽ hội thảo cùng với các nhà khoa học hàng đầu vào ngày 9 tháng 1 tới, về mối quan tâm ngày càng tăng, đối với phản ứng các bên về “khủng hoảng khí hậu: những biến đổi do con người gây ra trong môi trường làm tăng tốc độ nóng lên toàn cầu”. Cuộc thảo luận sẽ được tổ chức bởi Viện Tâm trí và Đời sống (Mind and Life Institute), rút ra từ cuốn sách mới nhất của Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chủ nghĩa hoạt động của nàng thiếu nữ (17 tuổi) Greta Thunberg, nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển về biến đổi khí hậu và một loạt phim giáo dục mới về biến đổi khí hậu.
24/12/2020(Xem: 4871)
Trung tâm Phật giáo Somapura (Somapura Mahavihara, সোমপুর মহাবিহার, Shompur Môhabihar) được kiến tạo vào thế kỷ thứ 8, tọa lạc tại Paharpur, Badalgachhi Upazila, Naogaon, Tây Bắc Bangladesh, một ngôi Già lam Cổ tự lớn thứ hai phía Nam dãy Hymalaya, một trong những trung tâm Phật giáo lớn nhất Nam Á, thành tựu nghệ thuật độc đáo, ảnh hưởng đến nhiều trung tâm Phật giáo lớn khác trên thế giới.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]