Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mật hạnh là gì? bài giảng của HT Tinh Vân

04/09/202013:01(Xem: 8385)
Mật hạnh là gì? bài giảng của HT Tinh Vân


ht tinh van-14


Mật hạnh là gì?

Lời dạy của Đức Đại Lão Hòa Thượng Tinh Vân
Do Nhã Tuệ dịch sang tiếng Việt và Diệu Danh diễn đọc


 




Mật hạnh là pháp môn bất nhị tăng thêm phẩm hạnh, viên mãn đạo đức. Ví như ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh của Đức Phật; mỗi ngày cầm bình bát khất thực, rửa chân ngồi thiền, hành hóa thuyết pháp, khiến chúng sinh nhập Phật tri kiến, chính là mật hạnh; lại ví như La-hầu-la (Rāhula) sám hối sửa lỗi, giữ vững thanh tịnh giới hạnh, trở thành đệ nhất mật hạnh trong hàng đệ tử Phật; Đại Ca-Diếp trú ở xứ Lan-nhã, tịch tịnh thiểu dục, trên hội Linh Sơn đã diệu khế chân như pháp tính, cũng là mật hạnh; Tu-bồ-đề (Subhūti) quán không cung nghênh Phật, cũng là mật hạnh.

Những việc làm nghĩa tình của người xưa như chia cháo cứu đói, xây cầu làm đường, đào giếng lấy nước, thắp đèn dâng trà, bố thí quan tài cho người chết, cứu trợ giúp đỡ, đều là mật hạnh gieo trồng phước đức. Gọi là “lân nga bất điểm đăng, vi thử thường lưu phạn” (vì thương những con thiêu thân, không đốt đèn vào ban đêm, vì sợ chuột không có thức ăn thường để lại một ít thức ăn), tức là khắc họa (miêu tả) tốt nhất về lòng từ bi rộng khắp đối với tất cả chúng sinh hữu tình có tâm thức.

Một người nên luôn luôn tu mật hạnh. Nếu tu như thế, người ấy sẽ được lợi ích và phúc đức vô hình. Dù có thể là một bức tượng thô làm bằng củi và bùn, nó là một tượng Phật, hãy tôn kính nó. Dù có thể là một cuộn được viết một cách nghèo nàn trên giấy vàng cán đỏ, nó là kinh điển thiêng liêng, hãy tôn kính nó.


Mật hạnh được giải thích như thế nào?

 

Mật hạnh ứng xử

Thứ 1, nhẫn một câu, nhịn một lúc, nhường một bước, tha một nước, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 2, bạn lớn tôi nhỏ, bạn có tôi không, bạn đúng tôi sai, bạn tốt tôi xấu, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 3, mỗi ngày bố thí một món nhỏ, kiên trì bền bỉ, đáp tặng xã hội, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 4, không tranh công trạng, thành tựu vinh quang thuộc về đại chúng, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 5, tùy hỷ tùy duyên, giúp đỡ người khác, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 6, miệng nói lời hay, cho người tín tâm, hoan hỷ, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 7, đối với quốc gia, làm bạn không mời, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 8, đối với bạn bè, nên không nhớ nghĩ oán cừu, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 9, đối với bản thân, cần không quên sơ tâm, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 10, đối với xã hội, có thể bất biến tùy duyên, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 11, không so đo, không tính toán, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 12, gặp người phải mỉm cười, xử sự phải lịch sự, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 13, chịu thiệt không sao cả, cư xử chân thành, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 14, lúc bị chửi mắng im lặng không đáp, lúc bị đả kích tâm có thể bình tĩnh, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 15, lúc bị đố kỵ đối đãi bằng từ tâm, lúc bị gièm pha cảm niệm lòng dạ ấy, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 16, không vì tham lam mà xâm phạm người khác, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 17, không vì tỏ vẻ mình nhanh nhạy mà mỉa mai người khác, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 18, không vì thấy người khác tốt mà đố kỵ, công kích, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 19, dùng cái tâm phê phán người khác để phê phán chính mình, dùng cái tâm khoan dung bản thân để khoan dung những lỗi lầm người khác, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 20, kết rộng duyên lành, biết nghe lời phải, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 21, không vì bao che tư dục (ham muốn cá nhân) mà làm tổn thương người khác, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 22, buông bỏ chấp trước, khiêm tốn tiếp nhận những lời hay lẽ phải, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 23, cư xử chân thành, không cầu báo đáp, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 24, quan tâm đồng hương, tham gia tình nguyện viên, là mật hạnh đối nhân xử thế.

Thứ 25, khi có người khác nhờ vả, phải hết lòng làm cho tới nơi tới chốn, là mật hạnh đối nhân xử thế.



Mật hạnh sinh hoạt

 

Thứ 1, mỗi khi ăn cơm đều thực hiện ba xưng niệm (tam đề), năm quán tưởng, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 2, làm việc nghỉ ngơi, sinh hoạt có quy luật, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 3, yêu quý và bảo vệ cây cối hoa cỏ, cắt tỉa tưới nước, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 4, động tác nhẹ nhàng, không làm phiền đến sự yên tĩnh của người khác, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 5, đi đứng ngồi nằm, oai nghi đoan chánh, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 6, xa rời thuốc rượu tình dục, sinh hoạt tự quản lý kiềm chế, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 7, chạy xe nhường nhau, quan tâm an toàn người đi đường, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 8, mỗi tháng ít nhất bế quan một ngày, tu trì pháp Phật, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 9, mỗi ngày làm một việc khiến người cảm động, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 10, mỗi ngày giúp người khác làm một số việc tốt, không cầu báo đáp, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 11, trước khi ngủ tụng niệm văn sám hối, tự kiểm điểm lỗi lầm của một ngày, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 12, mỗi tuần ít nhất tham gia cùng đại chúng tu chung một cây hương, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 13, học tập tiếp thu, hễ gặp việc gì hãy nhẫn nại, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 14, mỗi ngày chia sẻ hoan hỷ từ bi với mọi người, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 15, tích phước tiết kiệm, không mua linh tinh, không mua tràn lan, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 16, hơn một lần ăn chay, thì hơn một mật hạnh sinh hoạt, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 17, lúc hoan hỷ không nói nhiều, lúc giận hờn không truyền phẫn nộ đến người khác, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 18, mỗi tuần chí ít dành một tiếng để phục vụ khu vực, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 19, nương giới sinh hoạt, giữ gìn các căn, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 20, ăn uống tiết chế độ lượng, tri túc đạm bạc, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 21, thân thể ốm đau không oán trời trách đất, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 22, thay tâm, đổi tính, hồi đầu, quay người, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 23, dục vọng, tình ái, công việc, chỉ cần chính đáng, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 24, không truyền bá thị phi, không mang đau buồn tới người khác, là mật hạnh sinh hoạt.

Thứ 25, thích ứng trong mọi hoàn cảnh, tùy duyên sinh sống, tùy tâm tự tại, tùy hỷ mà làm, là mật hạnh sinh hoạt.




Mật hạnh xử thế

 

Thứ 1, hòa hợp người khác, hài hòa đại chúng, là mật hạnh xử thế.

Thứ 2, săn sóc người khác, ta người trọn vẹn, là mật hạnh xử thế.

Thứ 3, hằng thuận người khác, coi trọng ý dân, là mật hạnh xử thế.

Thứ 4, nhân nhượng người khác, đạt đến nhận thức chung, là mật hạnh xử thế.

Thứ 5, nhắc nhở người trẻ tuổi mới học, dành cho họ những chỉ bảo, là mật hạnh xử thế.

Thứ 6, gặp được minh sư (thầy rõ sự lý) phải gần gủi học hỏi, không được làm trái, là mật hạnh xử thế.

Thứ 7, gặp hiền nhân (người tài đức) phải khiêm tốn học hỏi, là mật hạnh xử thế.

Thứ 8, phụng dưỡng cha mẹ (hai bên) phải kính thuận phụng dưỡng, là mật hạnh xử thế.

Thứ 9, đối xử chủ quản phải một lòng trung thành, là mật hạnh xử thế.

Thứ 10, thấy người nguy cấp, phải dũng cảm cứu giúp, là mật hạnh xử thế.

Thứ 11, tùy sức, tùy phận, tùy hỷ, tùy duyên bố thí gieo phước, là mật hạnh xử thế.

Thứ 12, rõ nhân biết quả, là mật hạnh xử thế.

Thứ 13, dùng lý trí tịnh hóa tình cảm, dùng từ bi thăng hoa tình cảm, là mật hạnh xử thế.

Thứ 14, dùng pháp tắc hướng dẫn tình cảm, dùng đạo đức dẫn dắt tình cảm, là mật hạnh xử thế.

Thứ 15, nhiếp tâm (chuyên chú) chánh niệm, là mật hạnh xử thế.

Thứ 16, không ẩn trốn, không biện bạch những sai trái của mình, là mật hạnh xử thế.

Thứ 17, không quan tâm chuyện phải trái, không nghe chuyện đúng sai, là mật hạnh xử thế.

Thứ 18, thận trọng lời nói việc làm, là mật hạnh xử thế.

Thứ 19, phòng xấu ngừa ác, là mật hạnh xử thế.

Thứ 20, lúc gặp mặt nên có đôi lời, tương phùng nên hỏi thăm nhau, là mật hạnh xử thể.

Thứ 21, trò chuyện cần mỉm cười, có tranh cãi chỉ một lần (không nên sa đà cãi nhau đến nỗi làm hỏng mối quan hệ đôi bên), là mật hạnh xử thế.

Thứ 22, tự nhận vô lý, người khác đều đúng, là mật hạnh xử thế.

Thứ 23, hiến tặng khí quản (sau khi chết tự nguyện hiến xác), lưu lại tiếng thơm cho đời, là mật hạnh xử thế.

Thứ 24, không ngờ vực vô căn cứ người khác, không đố kỵ người khác, là mật hạnh xử thế.

Thứ 25, hổ thẹn tất cả những thứ không biết, bất tịnh, bất thiện, là mật hạnh xử thế.



Mật hạnh tu hành

 

Thứ 1, buổi sáng tĩnh tọa một nén nhang, để suy nghĩ trong sáng, là mật hạnh tu hành.

Thứ 2, mỗi ngày đọc một quyển kinh tạng, tăng thêm văn-tư-tuệ, là mật hạnh tu hành.

Thứ 3, sáng sớm mỗi ngày tụng niệm văn kỳ nguyện, tăng thêm tâm từ bi, là mật hạnh tu hành.

Thứ 4, bất kể thân ở đâu, thường xuyên cầu phúc cho người gặp tai nạn, là mật hạnh tu hành.

Thứ 5, với pháp Phật, siêng năng tu tập không thối chuyển, là mật hạnh tu hành.

Thứ 6, với giới luật, quyết định không phạm, là mật hạnh tu hành.

Thứ 7, tâm không nghĩ bậy, chánh tuệ rõ ràng, là mật hạnh tu hành.

Thứ 8, thân không tà hạnh (tà dâm), miệng không nói lời ác, là mật hạnh tu hành.

Thứ 9, tri túc đạm bạc, vui trong tịch tịnh, là mật hạnh tu hành.

Thứ 10, không thích ồn ào, giản dị tích phước, là mật hạnh tu hành.

Thứ 11, tất cả không đeo bám, quyết chí tinh tiến, là mật hạnh tu hành.

Thứ 12, chuyên tâm vào định và tuệ, tâm không cúi nịnh, là mật hạnh tu hành.

Thứ 13, không cho mình tốt, không rêu rao lỗi người, là mật hạnh tu hành.

Thứ 14, khiêm tốn theo thầy học tập, tâm luôn ngay thẳng, là mật hạnh tu hành.

Thứ 15, vật người không tham, của mình không keo kiệt, là mật hạnh tu hành.

Thứ 16, từ bi hỷ xả, thiện chí giúp người, là mật hạnh tu hành.

Thứ 17, tin sâu Chánh pháp, luôn nghĩ các điều thiện, là mật hạnh tu hành.

Thứ 18, không sinh kiêu ngạo, khiêm cung lễ phép, là mật hạnh tu hành.

Thứ 19, kẻ oán người thân đều bình đẳng, không sinh yêu ghét, là mật hạnh tu hành.

Thứ 20, kính yêu chúng sinh hữu tình có tâm thức như mình không khác, là mật hạnh tu hành.

Thứ 21, thông tình đạt lý khách quan, không chấp kiến giải cá nhân, là mật hạnh tu hành.

Thứ 22, thường luôn từ mẫn, tùy duyên bất biến, là mật hạnh tu hành.

Thứ 23, thiền quán hành đạo, không chấp có không, là mật hạnh tu hành.

Thứ 24, tự tâm là Phật, đảm đương ngay tại bây giờ, là mật hạnh tu hành.

Thứ 25, phát tâm Bồ-đề (Bodhi), hành đạo Bồ-tát (Bodhisattva), là mật hạnh tu hành.



Trăm việc mật hạnh là biểu đối chiếu ghi chép thiện ác công tội, là tấm gương sáng cho lời nói việc làm đoan chánh, là nước pháp gội tẩy nghiệp chướng phiền não, là thang thuốc hay trị liệu khổ đau thân tâm, là thầy chỉ điểm tiền đồ tươi sáng. Mật hạnh là sự bố thí vô tướng tam luân thể không, mật hạnh là tâm tính nội học, nếu có thể hiểu được và thực hành được, thì cuộc sống có thể đạt được tịnh hóa, thăng hoa.

Nguồn:  Phật giáo và thế tục, Nxb.Từ Thư Thượng Hải, tr.162-167


Lời dạy của Đại Lão Hòa Thượng Tinh Vân

Do Nhã Tuệ dịch







dai su tinh van






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/02/2021(Xem: 6058)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4414)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9342)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5866)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7201)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5863)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
28/01/2021(Xem: 6446)
Chúng ta đã quen với thể loại thơ Thiền sáng tác nhiều thế kỷ trước từ các ngài Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Hương Hải… Hay gần đây như với thơ của các ngài Nhất Hạnh, Mãn Giác, Tuệ Sỹ, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Ni Trưởng Trí Hải… Đó là nói cho chặt chẽ. Nếu nói cho nới rộng hơn, thơ Thiền cũng là Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn… Mỗi thời đại đều có những nét riêng, mỗi tác giả cũng là một thế giới độc đáo. Mặt khác, thơ Thiền mỗi quốc độ cũng khác. Trong khi phần lớn thơ Thiền Nhật Bản cô đọng với thể haiku, thơ Thiền Trung Hoa có nhiều bài hùng mạnh như tiếng sư tử hống, như với Chứng Đạo Ca của ngài Huyền Giác, hay Tín Tâm Minh của ngài Tăng Xán. Không ngộ được tự tâm, sẽ không có văn phong đầy sức mạnh như thế. Nơi đây, chúng ta nêu câu hỏi: Làn gió Thiền Tông đã ảnh hưởng vào thơ Hoa Kỳ ra sao? Và sẽ giới thiệu về bốn nhà thơ.
28/01/2021(Xem: 6466)
Mọi người đều biết câu chuyện Xá Lợi Phất thăm Cấp Cô Độc khi bị bịnh nặng và giảng cho Cấp Cô Độc bài pháp về quán chiếu, khi thiền trong Tứ Niệm Xứ mà chữa bịnh cho Cấp Cô Độc. Quán về Phật pháp tăng, 18 giới gồm 6 căn 6 trần 6 thức, rồi quán về 7 đại: đất nước gió lửa không kiến thức, quán về thời gian không gian và cuối cùng là quán về 5 uẩn. Cấp Cô Độc nghe xong hết bịnh. Cũng câu chuyện như vậy, nhưng nó khác đi chi tiết là lúc về già sắp mất: Xá Lợi Phất khai thị Cấp Cô Độc chú trọng về 5 uẩn, hãy trả 5 uẩn về lại cho 5 uẩn khi duyên hội tụ đã hết. Hãy trả Pháp về lại cho Pháp. Và Cấp Cô Độc chết thành A la hán vì đã ngộ được đạo về cõi trời.
28/01/2021(Xem: 5612)
Chùa Thiếu Lâm Tự mở ra khóa ngồi thiền cho 18 vị tu thành A la Hán. Khoá tu này trong 30 ngày ngồi trong tịnh thất suốt ngày đêm. Vị chủ trì là Hòa thượng trụ trì của Thiếu Lâm Tự. Thời bấy giờ là mùa xuân, cảnh đẹp hoa nở và thời tiết ấm áp. Mọi thiền sinh miệt mài tập trung thiền định đạt được 30 ngày miên mật thì bỗng xảy ra tiếng nói vọng vào từ ngoài cửa. Giọng nói đầy êm dịu thanh thoát và trong trẻo của một cô gái. Mỗi tiếng phát âm đi sâu vào tim người nghe một cảm giác êm dịu nhẹ nhàng như vuốt ve trái tim của con người.
27/01/2021(Xem: 3939)
Kính thưa quý đọc giả, tôi đột nhiên thấy được quyển sách với nhan đề “Khéo Dùng Cái Tâm” do Hội Phật Học Bát Nhã biên soạn, liền mượn về ngay để nghiên cứu. Tôi sở dĩ nghiên cứu tác phẩm này là do chủ đề “Khéo Dùng Cái Tâm” lôi cuốn tư tưởng của tôi. Chủ đề rất hấp dẫn khiến tôi tò mò không biết nội dung trong đó nói gì đành phải bỏ hết thời gian để đọc cho xong. Toàn bộ quyển sách chỉ nói về Ma Nhập, nhưng quý đọc giả cần phải đọc qua để biết Ma Nhập quan hệ như thế nào đối với con người chúng ta, đồng thời cần phải tỏ tường để tránh né và đối trị.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]