Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giáo sư Lewis Lancaster 60 năm Nghiên cứu Phật học và gần 40 năm giảng dạy Phật học

03/08/202009:42(Xem: 5917)
Giáo sư Lewis Lancaster 60 năm Nghiên cứu Phật học và gần 40 năm giảng dạy Phật học

Giáo sư Lewis Lancaster 60 năm Nghiên cứu Phật học và gần 40 năm giảng dạy Phật học
Giáo sư Lewis Lancaster

 

Giáo sư Lewis Lancaster sinh ngày 27 tháng 10 năm 1932, Giáo sư danh dự của Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Đông Á (East Asian Languages and Cultures) tại Đại học California, Berkeley, Hoa Kỳ, đã từng là Chủ tịch, Giáo sư phụ trợ, Chủ tịch Hội đồng xét Luận án (Chair of the Dissertation Committee) của đại học University of The West (California) từ năm 1992. Ông còn là Giáo sư Danh dự của khoa Ngôn ngữ Đông Á (East Asian Languages), Khoa trưởng Khoa Phật học (Buddhist Studies) thuộc đại học UC Berkeley; và đã từng giữ chức vụ Viện trưởng (2004-2006).

 

Ông tốt nghiệp Đại Roanoke (BA) vào năm 1954. Ông đã tốt nghiệp USC-ST (M.Th.) năm 1958 và tốt nghiệp Đại học Wisconsin (Ph. D.) năm 1968. Năm 2007, Giáo sư Lancaster nhận bằng Tiến sĩ Văn chương Danh dự tại Roanoke College. Năm 2008, ông đã trao cho Giảng viên Burke về Tôn giáo & Xã hội. Năm 2011, ông được phong hàm Tiến sĩ Danh dự về Phật học tại Đại học Phật giáo Việt Nam. Năm 2014, ông được tặng Giải thưởng Tối cao (Grand Award) của Tông phái Thiền Phật giáo Hàn Quốc.

 

Giáo sư Lewis Lancaster đã xuất bản hơn 55 khảo luận và luận văn, và đã biên tập hay chấp bút nhiều tác phẩm của nhiều tác phẩm như  Prajnaparamita and Related Systems, The Korean Buddhist Canon, Buddhist Scriptures, Early Ch’an in China and Tibet, và Assimilation of Buddhism in Korea.

 

Ông đã từng hợp tác với Hội Địa lý Quốc gia Hoa Kỳ (National Geographic Society, NGS) để hỗ trợ một dự án tổng hợp kinh điển Phật giáo của các cơ sở tự viện Phật giáo trong rặng Hy Mã Lạp Sơn, cũng như với Quỹ Khoa học Quốc gia (National Science Foundation, NSF) để đồng sáng lập Sáng kiến Từ điển Điện tử Atlas Văn hóa (Electronic Cultural Atlas Initiative, ECAI), dùng công nghệ máy tính để mô tả lại quá trình truyền bá chính pháp Phật đà từ quá khứ cổ đại cho đến hiện tại.

 

Giáo sư Lancaster còn là cố vấn cho Dự án Giáo dục Ngày Đản sinh của Đức Phật (Buddha's Birthday Education Project (BBEP), một dự án giáo dục nhằm phổ biến những nghiên cứu về công cuộc truyền bá Phật giáo từ Đông qua Tây theo Con Đường Tơ Lụa. Ông cũng là khuôn mặt chính trong công cuộc xây dựng Descriptive Catalogue and Digitization of the Korean Buddhist Canon (Danh mục Mô tả và Số hóa Hàn Tạng) cho Phật giáo Hàn Quốc.

 

Giáo sư Lewis Lancaster nói rằng: “Nếu chúng ta tồn tại và phát triển, đó là kim ngôn khẩu ngọc, những lời quý báu từ quá khứ cổ đại đầu tiên của Đức Thế Tôn được trao cho người nghe dưới tán cây trong lưu vực sông Hằng, đó có thể hy vọng tốt nhất của chúng ta để đối phó hiệu quả với từng khoảnh khắc ttrong tương lai”.

 

Khoa Phật học tại Đại học Wesst đã tổ chức lớp học cao cấp vào thứ Tư, ngày 27 tháng 5 năm 2020. Sự kiện này diễn ra trên Zoom, nơi nhiều hoạt động đã tìm thấy một ngôi nhà học tập lý tưởng kể từ khi nơi trú ẩn  của chúng ta bắt đầu khởi động. Buổi lễ đặc biệt đáng nhớ với các bài phát biểu của Ni trưởng Tiến sĩ Roshi Joan Halifax, thiền sư, nhà nhân chủng học, người sáng lập và trụ trì Trung tâm thiền Phật giáo Upaya và Trung tâm thiền Phật giáo ở Santa Fe, New Mexico và Giáo sư Lewis Lancaster, cả hai đều hào phóng khích lệ và trí tuệ cho những người đang rèn giũa một con đường phục vụ chúng sinh là cúng dường chư Phật.

 

Bảng điểm sau đây là từ bài phát biểu của Giáo sư Lewis Lancaster:

 

“Thường bắt đầu là thời gian mà những bậc trưởng lão nói với các sinh viên tốt nghiệp về cách cuộc sống hoạt động, những gì họ mong đợi và một danh sách các thực hành tốt nhất của LINE cho tương lai. Năm nay thì khác. Khi đại dịch hiểm ác đang đe dọa nhân loại, tất cả đều ngừng hoạt động và đường cao tốc đông đúc của chúng ta trở thành đường cao tốc trống rỗng, và chúng ta có những ngày bị cô lập với gia đình và bạn bè, và Zoom và Skybe trở thành mối liên hệ ảo lớn  của chúng ta với thế giới, và chúng ta lo lắng khi tử thần đe dọa và bệnh tật ập đến ở khắp nơi trên thế giới, nó đã để lại cho chúng ta một câu hỏi lớn chưa từng trả lời được, đó là thế giới như thế nào mà chúng ta đang bắt đầu trải nghiệm khi cánh cửa một lần nữa mở ra. Nó không giống như cái chúng ta đã có như năm ngoái. Do đó, với tư cách là một người đàn ông lớn tuổi, tôi cùng với bạn đối mặt với những điều chưa biết nơi các kiểu sống và hành động được với thời gian lâu dài  không còn được đảm bảo.

 

Năm nay, trẻ và già, chúng ta là đối tác trong hành trình này thành một trải nghiệm mới. Tất cả chúng ta đều biết Phật giáo dạy rằng mọi thứ đều vô thường hư huyễn. Nhưng đôi khi chúng ta phải tự nhắc nhở mình rằng, trong khi mọi thứ đều vô thường, thay đổi từng phút giây, điều đó không có nghĩa là mọi thứ biến mất, họ chỉ khác nhau. Sự mất mát của thế giới như chúng ta đã biết nó thật đáng sợ và mọi người đang ở trong một dạng đau buồn. Có những biểu hiện của sự sân hận và giận dữ, thiên hướng tấn công và cố gắng phục hồi quá khứ.

 

Bây giờ đến vấn đề lớn hơn, Phật giáo nói gì về việc sống với sự vô thường? Sự khác biệt mà chúng ta phải đối mặt không chỉ là các cấu trúc trí tuệ, và là ngay lập tức chúng đối đầu. Giáo lý và thực hành Phật giáo đưa ra nhu cầu phải chánh niệm, nhận thức, tỉnh táo và hiện diện trong từng khoảnh khắc. Khi cuộc sống không quá khó khăn, có thể nghĩ về chánh niệm và nhận thức này là một điều gì đó tốt đẹp để nâng cao kinh nghiệm sống của chúng ta. Ngày nay, chánh niệm về thế giới của chúng ta không chỉ là sự nâng cao, nó đã trở thành một khía  cạnh cần thiết cho sự sống còn của chúng ta. Theo nghĩa nào đó, chúng ta bị thách thức không chỉ trong cuộc sống tương lai, chúng ta phải cứu lấy tương lai,  cho dù là môi trường mong manh cho chính cuộc sống của chúng ta hay sự sống sót trong các lần xuất hiện định kỳ của các vi khuẩn mới mà công nghệ du lịch có thể sớm lan rộng trên khắp hành tinh. Khi bạn ra ngoài làm giáo sĩ, hãy lưu ý rằng việc thực hành và tư tưởng Phật giáo có khả năng tập trung chú ý vào kinh nghiệm của con người, và các hành vi nghiệp lực của con người có nguồn gốc từ những khoảnh khắc kinh nghiệm đó. Nếu chúng ta tồn tại và phát triển, đó là lời dạy quý báu đầu tiên từ quá khứ cổ đại, được trao cho người nghe dưới tán cây trong lưu vực sông Hằng, đó có thể là hy vọng tốt nhất của chúng ta để đối phó hiệu quả với từng khoảnh khắc trong tương lai. Là một người thức tỉnh (giác ngộ) về sự thật và tình huống thực tế của chúng ta là mục tiêu của Đức Phật, người có cái nhìn sâu sắc rằng, trong khi đó có sự đau khổ và bất mãn, cũng có một cách sống cho phép chúng ta thể hiện trí tuệ và từ bi tâm. Tất cả chúng ta cùng nhau trong thế giới mới này. Mong muốn của tôi cho tất cả  chúng ta trẻ và già, là khả năng mang lại ánh sáng trí tuệ ấm áp và suối nguồn từ bi tươi mát cho chúng sinh đang đấu tranh để hiểu những gì đang xảy ra xung quanh họ”.

 

Lip video:

 

Thoáng Nhìn về Phật giáo trong Thế kỷ 21

(Glimpse of the 21st Century Buddhism)

Công đức và Giác Ngộ

(Merit & Enlightenment)

https://www.duoctue.online/ đuốc-tuệ-video/dr-lewis-lancaster/

 

Liên kết bên ngoài

 

Trang Giảng viên tại Đại học California, Berkeley, Hoa Kỳ

Faculty page at University of California, Berkeley

 

Trang Lewis Lancaster tại Dự án Giáo dục Kỷ niệm ngày Phật Đản sinh

 

Lewis Lancaster page at Buddha's Birthday Education Project

 

Trang của Trung tâm Nghiên cứu Phật học, Đại học Hồng Kông

Faculty Page at Centre of Buddhist Studies, The University of Hong Kong

 

Kinh điển Phật giáo Hàn Quốc: Một danh mục mô tả: (3). Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2020.

 

Nguồn Tham khảo:

 

"Lewis Lancaster: Buddhism in a Global Age of Technology". University of California Television. Retrieved 1 May 2013.

 

"Lewis Lancaster". Buddha's Birthday Education Project. Archived from the original on 26 November 2013. Retrieved 1 May 2013.

 

Juewei (2013). Parading the Buddha – Localizing Buddha’s Birthday Celebration. Los Angeles: Buddha's Light Publishing. ISBN 978-1-932293-83-8. Archived from the original on 2016-03-04. Retrieved 2014-06-01.

 

Lancaster, Lewis (Ed.) (1979). The Korean Buddhist Canon A Descriptive Catalogue. Berkeley: University of California Press. ISBN 9780520031593. (1) and (2). Both retrieved 9 March 2020

 

Thích Vân Phong biên dịch

(Tổng hợp các nguồn Internet)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/09/2015(Xem: 5741)
Chùa Đá Vàng là kỳ quan tôn giáo của người Myanmar đồng thời là câu hỏi chưa có lời giải đáp của ngành khoa học địa lý. Chùa Đá Vàng hay Kyaiktiyo là điểm hành hương Phật giáo nổi tiếng thứ ba tại Myanmar, sau chùa Swedagon và đền Mahamuni, cách Yangon 200 km. Ngôi chùa nằm chơi vơi trên tảng đá khổng lồ ở vị trí chênh vênh cạnh vách núi cao 1.100 m. Những ai lần đầu nhìn đều cảm tưởng hòn đá sẽ lăn ngay xuống vực. Truyền thuyết Myanmar lý giải cho bố cục kỳ lạ này bằng câu chuyện của Đức Phật, tương truyền bảo tháp trên hòn đá chính là sợi tóc của ngài. Dù bạn có tin vào truyền thuyết hay không, trong khoa học địa lý đây là hiện tượng không thể lý giải.
27/09/2015(Xem: 10067)
Khi sống con người hay lãng phí thời gian làm những việc vô nghĩa, bởi lòng tham lam, ích kỷ của chính mình, tích chứa tiền bạc của cải nhưng không giúp gì cho ai? Có một con cáo đã phát hiện ra một chuồng gà, nó bèn tìm cách tiếp cận nhưng vì cáo nhà ta quá mập nên không thể chui lọt vào chuồng để ăn gà. Thế là nó đành phải nhịn đói suốt ba ngày liền mới có thể vào được chuồng gà. Sau khi vào được, nó đã ăn no nê để bù lại những ngày nhịn đói, giờ đây chiếc bụng của cáo đã phình to ra, nên không thể nào ra được nữa, thế là cáo đành phải nhịn đói trở lại ba ngày mới có thể ra khỏi chuồng gà.
25/09/2015(Xem: 7805)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng ở tuổi 80 của tôi thuộc thế hệ thế kỷ 20. Những người trẻ dưới 30 tuổi thuộc thế hệ của thế kỷ 21. Ngài thừa nhận rằng thế hệ của thế kỷ 20 đã tạo ra nhiều vấn đề, bao gồm cả thiệt hại cho môi trường. Một số ý tưởng của họ, chẳng hạn như quan điểm cho rằng vấn đề có thể được giải quyết bằng vũ lực hiện nay là hoàn toàn lỗi thời. Đức Đạt Lai Lạt Ma từ bến phà Millbank Pier đi đến The The O2 Arena, Greenwich, Luân Đôn, Vương quốc Anh. 19/09/2015. (Ảnh: Jeremy Russell)
24/09/2015(Xem: 7975)
Khi chung ta bước đi, với tâm địa Từ Bi rộng mở mang theo, làm tất cả những việc lành cho tất cả chúng sanh là chúng ta đã mở rộng biên giới hòa bình ngày một dang rộng. Những bước chân ấy đáng gọi là những bước chân Từ Bi. Có những điều khi tiếp cận với Phật học, dù với bất cứ trình độ nào, chưa chắc một sớm một chiều mình hiểu ra ngay hết được. Đôi khi phải đợi đến nhiều chục năm sau, thậm chí gần hết đời người rồi mình mới bừng tỉnh về một điều giác ngộ chưa trọn vẹn. Khi xưa mình nghe kể chuyện đức Phật Đản sanh, dưới bảy bước đi đều nở bảy đóa hoa sen. Thần thoại, truyền thuyết hay hư cấu cho lung linh một sự kiện về đấng giáo chủ của mình; hãy cứ để đó. Sau này ghé sang Làng Mai, chạm phải những công án Thiền của Ngài Nhất Hạnh, chúng ta bắt gặp câu “Từng bước nở hoa sen” thì mới vỡ òa nhiều khúc mắc ngày xưa còn kẹt lại trong một góc tối của tâm trí nào đó.
24/09/2015(Xem: 9006)
Sau tiếng ré lên của cái chuông bấm ở cửa, mình đã nghe tiếng chìa khoá lách cách tra vào ổ khoá của cánh cửa song sắt ở bên trong. Một chập sau, cánh cửa "Trại Cải Huấn Thanh Thiếu Niên Phạm Pháp" (Jugendarrestanstalt, viết tắc là JAA) tại Nienburg nặng chịt, rít lên tiếng sắt cọ sát trên thềm xi măng, mở ra. Bước chân vào, vài câu chào hỏi trao đổi với cô giám thị. Cửa chánh đóng lại. Cô giám thị hướng dẫn mình đi qua một cánh cửa song sắt. Lại đứng chờ. Sau khi nó lại khóa lại, thì có cảm giác "mình đi lại tự do trong Trại Cải Huấn" được rồi! Tiến về phòng điều hành. Từ bên ngoài đã thấy ông "xếp" trại, ba nam giám thị, cô giám thị khi nãy; hai cô tác viên xã hội (Sozialarbeiterin) và thêm bốn thiếu nữ lạ mặt. Ông "xếp" trại giới thiệu bốn thiếu nữ lạ ấy cũng là tác viên xã hội ở các tù khác đến tìm hiểu kinh nghiệm hướng dẫn của "thầy JIP" - tên là Diệp, nếu đọc không bỏ dấu và theo âm Đức thì là "Dieb"; mà "Dieb" có nghĩa là "kẻ cắp"! Còn nếu phát âm tương đối đúng thì v
24/09/2015(Xem: 9025)
Phải nói thật rằng câu hỏi này lởn vởn trong đầu tôi nhiều lần, trong nhiều năm nay. Nghe có vẻ ngớ ngẩn. Mà cũng có thể tôi là người ngớ ngẩn. Ai đời lại đi đặt câu hỏi mà đứa trẻ học tiểu học cũng có câu trả lời thế này. Ấy thế mà khi ngồi tĩnh tâm tại ngôi chùa lớn nhất thế giới Borobudur, Indonesia câu hỏi này lại hiện về. Hiện về 1 cách rất rõ nét. Đây là lần thứ 3 câu hỏi này làm tôi trăn trở nhiều nhất.
21/09/2015(Xem: 7592)
Hơn hai ngàn năm trăm năm trước, Tu Bồ Đề kính cẩn đặt câu hỏi với Phật: “...Làm thế nào để an trụ tâm, làm thế nào để hàng phục tâm?” (Vân hà ưng trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm?) thì Phật bảo rằng không có gì khó cả, các vị Đại Bồ tát đều hàng phục tâm bằng cách như vầy... như vầy...
21/09/2015(Xem: 10084)
Tôi gặp bà lần đầu tiên trong một phiên họp thường niên lãnh đạo Hiệp hội Xuất bản ASEAN diễn ra tại thủ đô Jakarta, Indonesia. Ấn tượng của tôi về lãnh đạo cao cấp này của Hội sách lớn nhất thế giới được tổ chức thường niên vào tháng 10 là bà rất nhẹ nhàng, rất Á đông, rất gần gũi, rất nhiệt tình. Tôi cũng đặc biệt vui khi bà quan tâm đến Việt Nam. Trong phiên hop này, lãnh đạo Hội xuất bản Việt Nam bận hết nên tôi làm trưởng đoàn. Vậy là ngoài các buổi làm việc chung với trưởng đoàn của Hội xuất bản các nước ASEAN tôi có các buổi làm việc riêng với nhiều lãnh đạo các nhà xuất bản các nước, trong đó có buổi làm việc với bà Claudia Kaiser, người phó chủ tịch rất hiểu biết và thân thiện của Frankfurt Book Fair.
21/09/2015(Xem: 7996)
Khi mẹ mất, con cháu đều có mặt. Qua bao năm đất nước tang thương, chiến tranh khốc liệt, đàn con gian truân trong nghề nghiệp, trong lửa đạn. Có đứa vào quân đội, cả năm không thấy mặt, không biết ở đâu. Sau chiến tranh mọi người đều tìm cách bỏ xứ. Đứa trước đứa sau, qua rừng qua biển, rồi tìm cách đưa được mẹ sang xứ người. Các con làm lại sự nghiệp, các cháu học hành giỏi, thành công vượt mực. Ai cũng nói: “Cụ thật có phước, cụ thật có phước, được Phật độ !”
20/09/2015(Xem: 11769)
Tâm dục được xếp hạng trên tất các sắc tướng, gọi là Sắc Dục, mà mê đắm sắc đẹp đưa đến dâm dục là điều cốt yếu của mọi vấn đề trên cõi Ta Bà. Tham dâm dục thôi thúc trong lòng khiến con người phải hành động để được thoả mãn ham muốn. Khi cái luồng chân khí ái dục này dâng lên thì si ái tình, khi đi xuống thì tham nhục dục. Mà ái có nghĩa là yêu thương thuộc tình cảm với cảm giác cao thượng. Dục là sự si mê, thèm khát thể xác. Khi dâng lên khi hạ xuống bất thường thì bị tẫu hỏa nhập ma, thất tình lục dục, đưa đến hành động phi luân, phạm pháp, vô đạo tai hại khôn lường cho mình cho người. Dục gồm có lục dục hay ngũ dục. Lục dục là sự ham muốn của sáu căn đối với sáu trần; mắt thích nhìn những sắc đẹp, tai thích nghe âm thanh êm dịu, mũi thích ngửi mùi thơm, lưỡi thích nếm những vị ngon, thân thích đụng chạm êm ái, ý thích nghĩ tới tham si. Ngũ dục là năm thứ ham muốn của người đời không dễ gì loại bỏ. Kinh Phật nói về Ác Dục, Niệm Dục: Chư hiền, nếu ai có ác dục, niệm dục th
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]