Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật giáo có thể giúp bạn Đối phó với sự Sợ hãi bởi Đại dịch Covid-19

08/04/202020:07(Xem: 5805)
Phật giáo có thể giúp bạn Đối phó với sự Sợ hãi bởi Đại dịch Covid-19

Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Phật giáo có thể giúp bạn Đối phó với sự Sợ hãi bởi Đại dịch Covid-19

 

Do có nguy cơ bị đại dịch Virus Corona tấn công, các cơ sở tự viện Phật giáo tại các quốc gia trên thế giới đều đóng cửa (bế môn), để cho công chúng tuân thủ các biện pháp giãn cách toàn xã hội trong thời gian nhất định nào đó.

 

Chư tôn đức giáo thọ Phật giáo đang đưa ra những giáo lý đạo Phật, nhằm nhắc nhở cộng đồng Phật tử từ xa về các yếu tố chính của sự thực hành.

 

Tại các quốc gia châu Á, chư tôn đức Tăng già Phật giáo tụng kinh, niệm Phật, trì chân ngôn mật chú để cung cấp nguồn năng lượng tích cực trong quá trình giải thoát tâm linh. Tại đảo quốc Phật giáo Sri Lanka, các cơ sở tự viện Phật giáo tụng kinh cầu nguyện tiêu tai giải nạn được đưa hình ảnh trên đài phát thanh truyền hình. Ở Ấn Độ, chư tôn đức tăng già Phật giáo tụng kinh tại Bồ đề Đạo tràng, thành phố ở quận Gaya, Bihar, Ấn Độ, kỷ niệm nơi Thái tử Sĩ Đạt Ta thành đạo Vô thượng Bồ đề hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni.

 

Các nhà lãnh đạo Phật giáo cho rằng, giáo lý đạo Phật có thể giúp đối mặt với sự vô thường, sợ hãi và lo âu bởi sự lây lan của đại dịch Covid-19.

 

Đây không phải là lần đầu tiên đạo Phật đưa ra giáo lý để cung cấp cứu trợ trong một cuộc khủng hoảng. Là một học giả Phật giáo, tôi đã nghiên cứu những cách mà giáo lý đạo Phật được minh giải để giải quyết các vấn đề xã hội.

 

"Phật giáo dấn thân" (Engaged Buddhism -社會參畫佛教)

 

Vào thập niên 1960, trong cuốn sách “Hoa sen trong biển lửa, Lotus in a Sea of Fire”, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã đưa ra khái niệm "Đạo Bụt dấn thân" hay “Phật giáo dấn thân” (Engaged Buddhism-社會參畫佛教), tức là áp dụng những tuệ giác của mình đạt được từ những lời của đức Phật và từ thiền quán để làm vơi bớt những nỗi khổ niềm đau trong xã hội, trong môi sinh và trong chính trường.

 

Trong thập niên 1960 này, Ngài khai sáng Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội (School of Youth for Social Services - SYSS), một tổ chức từ thiện giúp dựng lại các làng bị bom đạn, xây trường học, trạm xá, và hỗ trợ những gia đình vô gia cư sau chiến tranh tại Việt Nam.

 

Ngài là một trong những thành viên sáng lập Đại học Vạn Hạnh, trường tư thục danh tiếng, tâp trung nhiều nhà nghiên cứu về Phật giáo, văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam. Trong một buổi gặp mặt vào tháng 4/1965, đoàn sinh viên trường Đại học Vạn Hạnh đưa ra “lời kêu gọi vì hòa bình”, với nội dung chính là thúc giục hai miền Nam – Bắc tìm “giải pháp chấm dứt chiến tranh và đem lại cho người dân Việt Nam cuộc sống hòa bình với lòng tôn trọng lẫn nhau”. Ngài là vị Sứ giả vận động cho phong trào hòa bình, với các giải pháp không bạo lực cho các mâu thuẫn.

 

Sau đó, Ngài đã truyền giới Tiếp hiện cho một nhóm sinh viên, và các bạn Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội, góp phần hiện đại hóa đạo Phật, lý tưởng Bồ tát đạo, mang ánh sáng từ bi trí tuệ đạo Phật đi vào cuộc đời.

 

Trong những năm gần đây, nhiều Phật tử đã tích cực tham gia vào các vấn đề chính trị và xã hội trên khắp châu Á cũng như các khu vực của thế giới phương Tây.

 

Triết lý này được thể hiện sâu sắc qua cuộc đời của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Ngài đã dành cả đời để cống hiến cho hòa bình bằng những pháp môn thực tiễn của Phật giáo.

 

Với những hoạt động không ngừng nghỉ của mình, Thiền sư Thích Nhất Hạnh trở thành nhà lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn thứ hai ở phương Tây, chỉ sau Đạt Lai Lạt Ma, AP đánh giá trong một bài viết ra năm 2009.

 

Vận dụng giáo lý từ bi trí tuệ của đạo Phật qua 5 điều sau đây, trong thời điểm hiện tại có thể giúp mọi người thoát khỏi sự sợ hãi, lo âu và cô lập.

 

1. Thừa nhận nỗi sợ hãi

 

Trong giáo lý căn bản của đạo Phật có “Bốn sự thật nhiệm mầu” (Tứ Diệu đế):

 

1. Khổ đế (duḥkha-satya): Chỉ cho trạng thái khổ não bức bách thân tâm. Nhận thức đúng thế gian, không luận là hữu tình hay vô tình của tất cả mọi sự vật giữa thế gian, tất cả đều là khổ; cùng mọi giá trị phán đoán do những hoàn cảnh chung quanh tạo ra trong cuộc sống của con người thuộc về thế tục, thì bản chất của chúng là khổ. Khổ đế là Chân đế chỉ cho quan hệ sinh tử thật là khổ.  

 

2. Tập đế (samudaya-satya): có nghĩa là nhóm họp tích chứa. Nhận thức đúng tất cả nghiệp hoặc phiền não, chúng có khả năng nhóm họp quả khổ sinh tử ba cõi. Tập đế là chân đế chỉ cho quan hệ sinh khởi cùng căn nguyên của mọi thứ khổ của chúng sanh ở trong thế gian này.  

 

3. Diệt đế (nirodha-satya): là tịch diệt. Nhận thức đúng về việc đoạn trừ dục ái nguồn gốc của khổ, thì khổ sẽ diệt được, và có thể sẽ nhập vào cảnh giới Niết-bàn. Diệt đế là chân đế chỉ cho sự quan hệ diệt tận khổ và tập.  

 

4. Đạo đế (mārga-satya): Đạo có nghĩa là thông suốt. Nhận thức đúng về đạo diệt khổ, qua bát Chánh đạo (Từ chánh kiến cho đến chánh tuệ). Nếu nương tựa vào chúng mà tu hành, thì sẽ thoát khỏi hai đế khổ-tập, đạt đến cảnh giới Niết-bàn tịch tĩnh. Đạo đế là chân đế chỉ cho sự quan hệ đến bát Chánh đạo. Qua Tứ đế khổ và tập biểu thị cho nhân quả mê vọng của thế gian; tức quả của hữu lậu thế gian là khổ đế, nhân của hữu lậu thế gian là tập đế; quả của vô lậu xuất thế gian là diệt đế, nhân của vô lậu xuất thế gian là đạo đế. Đó là nhân quả Tứ đế giải thoát sinh tử qua kinh điển dành riêng cho các nhà Thinh văn như trong kinh Pháp Hoa (Puṇḍarika) phẩm tựa đã dạy.

 

Hiểu và thừa nhận “Bốn sự thật nhiệm mầu”. Bản chất thực tế được khẳng định trong bản Thánh ca này, dùng để nhắc nhở mọi người rằng, nỗi sợ hãi và sự vô thường là điều tự nhiên đối với cuộc sống bình thường. Với thực tế của chúng ta là một phần của việc làm cho hòa bình, bất kể điều gì, đang mong đợi sự vô thường, thiếu sự kiểm soát và không thể đoán trước.

 

Suy nghĩ rằng mọi thứ trở nên khác, từ quan điểm của Phật giáo, không cần thiết thêm đau khổ.

 

Thay vì phản ứng với nỗi sợ hãi, các vị giáo thọ Phật giáo khuyên với “Thái độ của người tu tập Phật giáo đối mặt với sự đau đớn”.

 

Vị tăng sĩ Phật giáo Nguyên Thủy, Thiền sư Ajahn Brahm giải thích rằng: “Sự đau đớn cũng là một hiện tượng – dharma – như tất cả các hiện tượng khác, không nên tìm cách chống lại sự vận hành tự nhiên của nó mà phải thỏa hiệp với nó, cùng chuyển động với nó, và nhờ đó mình sẽ nhận thấy nó liên hệ với mình nhưng không phải là thuộc của mình và cũng không phải là chính mình”.

 

1. Thực tập Chánh niệm và Thiền định

 

Chánh niệm và Thiền định là những giáo lý căn bản của đạo Phật. Thực hành chánh niệm nhằm hạn chế các hành vi bốc đồng với nhận thức về cơ thể.

 

Ví dụ, hầu hết mọi người phản ứng bốc đồng để gãi ngứa. Với việc thực tập chánh niệm, các cá nhân có thể rèn luyện tâm trí của mình để theo dõi sự phát sinh và sự ngứa đã qua đi mà không cần bất kỳ sự can thiệp nào về thể chất.

 

Với việc thực tập chánh niệm, người ta có thể trở nên ý thức hơn và Tránh chạm tay lên mặt (mắt, mũi, miệng) và thường rửa tay.

 

Thiền định so với chánh niệm, là một thực hành dài hơn, hướng nội hơn so với thực hành chánh niệm từng khoảnh khắc. Đối với những người theo đạo Phật, thời gian của một người thường một mình với tâm trí là một phần của khóa tu thiền. Cách ly và kiểm dịch có thể phản ánh các điều kiện cần thiết cho một khóa tu thiền.

 

Ngài Yongey Mingyur Rinpoche, một thiền sư trẻ của Phật giáo Tây Tạng, khuyên nên theo dõi những cảm giác lo âu, phiền muộn trong cơ thể và xem chúng như những đám mây đến và đi.

 

Thiền định thường xuyên có thể cho phép một người thừa nhận sự sợ hãi, tức giận và vô thường. Sự thừa nhận như vậy có thể giúp các bạn dễ dàng nhận ra những cảm giác này chỉ đơn giản là chuyển hóa các phản ứng đến một tình huống vô thường.

 

3. Tu tập hạnh Từ bi

 

Giáo lý đạo Phật nhấn mạnh đến “Tứ vô lượng tâm”: tâm Từ diệt trừ sự sân hận; tâm Bi diệt trừ hại tâm; tâm Hỷ diệt trừ bất lạc; tâm Xả diệt trừ hận tâm.

 

Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được sự phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và lợi tha khi đem chúng ta ra ban vui cứu khổ cho chúng sinh cũng đạt được như mình của chư Phật và Bồ tát.

 

Bốn phạm trù này dùng để đối trị bốn thứ phiền não, tham lam, sân hận, đố kỵ, buồn lo ttrong lúc tu tập thiền định và cũng từ thiền định này tạo điều kiện làm duyên cho bốn tâm thức cao thượng rộng lớn vô lượng phát sinh đối với vô lượng chúng sinh. Các vị giáo thọ Phật giáo tin rằng, bốn phạm trù này có thể thay thế các trạng thái tâm lý lo lắng và sợ hãi.

 

Khi xung quanh sự cảm xúc nỗi sợ hãi hoặc lo âu sầu khổ quá mạnh mẽ, các vị giáo thọ Phật giáo nói rằng, người ta nên quán chiếu về từ bi tâm, hảo tâm và sự đồng cảm. Mô hình của những suy nghĩ sợ hãi và tuyệt vọng có thể được ngăn chặn bằng cách đưa bản thân trở lại cảm giác chăm sóc người khác.

 

Lòng trắc ẩn vị tha rất quan trọng ngay cả khi chúng ta duy trì khoảng cách. Thầy Pháp Linh, một vị giáo thọ Làng Mai khuyên rằng, đây có thể là thời gian để tất cả mọi người quan tâm đến các mối quan hệ của họ.

 

Điều này có thể được thực hiện thông qua các cuộc chia sẻ với những người thân yêu của chúng ta nhưng cũng thông qua thực hành thiền định. Khi các thiền giả hít vào, mà mọi người đều cảm thấy họ nên thừa nhận sự đau khổ, lo âu, và trong khi thở ra, chúc mọi người bình an và hạnh phúc.

 

4. Hiểu biết về kết nối giữa chúng ta

 

Giáo lý đạo Phật nhân ra một mối liên kết giữa mọi thứ. Đại dịch Virus Corona là một khoảnh khắc để thấy rõ hơn điều này. Với mỗi cử chỉ hành động ai đó thực hiện để tự chăm sóc bản thân, chẳng hạn như rửa tay, họ cũng đang giúp bảo vệ người khác.

 

Tư duy nhị nguyên về sự tách biệt giữa bản thân và người khác, bản thân và xã hội, bị phá vỡ khi nhìn từ góc độ của sự kết nối.

 

Sự sống còn của chúng ta phụ thuộc vào nhau, và khi chúng ta cảm thấy có trách nhiệm với mọi người, chúng ra hiểu khái niệm kết nối là một sự thật khôn ngoan.

 

5. Sử  dụng thời gian này để phản ánh

 

Thời điểm vô thường, các vị giáo thọ Phật giáo lập luận, có thể là cơ hội tất để hiện thực hóa những giáo lý đạo Phật, lan tỏa ánh sáng từ bi trí tuệ vào cuộc đời.

 

Các cá nhân có thể biến sự thất vọng với thời điểm hiện tại thành động lực để thay đổi cuộc sống và quan điểm của một người về thế giới. Nếu một người tự chuyển biến những chướng ngại như một phần của con đường tâm linh, người ta có thể sử dụng những thời điểm khó khăn để thực hiện một cam kết sống một cuộc sống tinh thần hơn.

 

Độc cư tại gia tịnh tu là một cơ hội để suy ngẫm, và chỉ là tận hưởng những điều nhỏ nhặt.

 

Clips:
 

Chư tôn đức tăng già Phật giáo tụng kinh tại Bồ đề Đạo tràng, Ấn Độ cầu tiêu tai giải nạn, chúc phúc cát tường cho những bệnh nhân nhiễm Covi-19

 

https://www.youtube.com/watch?v=qd-6da4d0Zk&feature=emb_logo

 

Thầy Pháp Linh chia sẻ Phật pháp trong hai tuần tự cách ly tại Làng Mai, Pháp quốc

https://www.youtube.com/watch?v=v4rUnZYkxhI&feature=emb_logo

 

Thích Vân Phong dịch

(Nguồn: The Conversation)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/11/2010(Xem: 8723)
Hôm nay chúng tôi được duyên lành về đây, trước hết thăm chư Tăng trong mùa an cư, sau có vài lời muốn nói cùng chư Tăng Ni. Chúng tôi thường tự tuyên bố rằng tôi là kẻ nợ của Tăng Ni, nên trọn đời lúc nào tôi cũng canh cánh trong lòng nghĩ đến người tu xuất gia, muốn làm sao tạo duyên tốt cho tất cả Tăng Ni trên đường tu, mỗi ngày một tiến lên và tiến đúng đường lối của Phật đã dạy.
20/11/2010(Xem: 8458)
Khái niệm về "Tám mối lo toan thế tục" tiếng Phạnlà "Astalokadharma",tương đối ít thấy đề cập trong Phậtgiáo Trung hoa, Việt Nam, Triều tiên và Nhật bản, nhưng thường được triển khai trongPhật giáo Ấn độ và Tây tạng. Vậy "Támmối lo toan thế tục" là gì ? Đó là những tình huống, những mối bận tâmvà lo lắng làm xao lãng tâm thức và sự sinh hoạt của người tu tập. Những mối bậntâm đó được phân chia thành bốn cặp :
19/11/2010(Xem: 8288)
Nếu bạn hỏi ta tham dự vào việc lắng nghe, suy niệm và thiền định về giáo lý như thế nào thì câu trả lời là ta cần làm những điều đó không chỉ vì lợi ích của ta, nhưng bởi lợi lạc của tất cả chúng sinh. Như vậy bạn phát triển Bồ Đề tâm ra sao? Trước hết bạn thiền định về lòng từ ái, và sau đó là lòng bi mẫn. Làm thế nào bạn biết là mình có Bồ Đề tâm hay không? Người không phân biệt giữa bạn và thù, người ấy có Bồ Đề tâm. Điều này rất khó khăn đối với người mới bắt đầu, bạn nghĩ thế phải không? Vậy tại sao khó khăn? Từ vô thủy chúng ta đã bám chấp vào ý niệm sai lầm của cái tôi và đã lang thang suốt trong sinh tử.
19/11/2010(Xem: 9759)
Giáo lý này được đưa ra để làm lời nói đầu cho tập sách mỏng về Phật Ngọc và Đại Bảo Tháp Từ bi Thế giới được xây dựng tại Bendigo, Úc châu, theo lời khẩn cầu của ông Ian Green.
18/11/2010(Xem: 11170)
Tôi vừa từ Kuala Lumpur trở về Singapore tối nay. Tôi đã tới đó để dự một lễ Mani Puja trong 5 ngày do Trung tâm Phật giáo Ratnashri Malaysia tổ chức. Đây là trung tâm thuộc Dòng Truyền thừa Drikung Kagyu và có nối kết mật thiết với Đạo sư Drubwang Konchok Norbu Rinpoche. (1) Trong khóa nhập thất này, tôi đã cố gắng để được gặp riêng Đại sư Garchen Rinpoche. Rinpoche đã xác nhận rằng Khóa Nhập thất hàng năm Trì tụng 100 Triệu Thần chú Mani được tiếp tục để làm lợi lạc tất cả những bà mẹ chúng sinh chính là ước nguyện vĩ đại nhất của Đạo sư Drubwang Rinpoche. Rinpoche khuyên rằng chúng ta có thể thành tâm thỉnh cầu Tu viện KMSPKS (Tu viện Kong Meng San Phor Kark See tại Singapore) tiếp tục khóa nhập thất bởi điều này cũng làm lợi lạc cho Tu viện. Rinpoche cũng đề cập rằng các Đạo sư Tâm linh Drikung Kagyu sẽ luôn luôn hết sức quan tâm tới Khóa Nhập Thất Mani bởi nó rất lợi lạc cho tất cả chúng sinh.
18/11/2010(Xem: 12445)
Cuốn sách là những chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu về cách nhìn sự vật và cách sống theo giáo pháp của đức Phật, về cách thương yêu chính mình...
17/11/2010(Xem: 11308)
Còn định nghiệp là sao? Ðịnh nghiệp mới xem bề ngoài cũng có phần tương tự như định mệnh. Ðã tạo nhân gì phải gặt quả nấy, gieo gió gặt bão. Nhân tốt quả tốt, nhân xấu quả xấu. Không thể có nhân mà không quả, hay có quả mà không nhân. Ðó là một quy luật đương nhiên. Tuy nhiên luật nhân quả nơi con người không phải do bên ngoài sắp đặt mà chính do tự con người chủ động. Con người tự tạo ra nhân, ấy là tạo nghiệp nhân, rồi chính con người thu lấy quả, ấy là thọ nghiệp quả. Do vậy dù ở trường hợp thụ quả báo có lúc khắt khe khó cưỡng lại được, nhưng tự bản chất đã do tự con người thì nó không phải là cái gì cứng rắn bất di dịch; trái lại nó vẫn là pháp vô thường chuyển biến và chuyển biến theo ý chí mạnh hay yếu, tốt hay xấu của con người.
16/11/2010(Xem: 8246)
Chúng tôi vui mừng biết rằng Hội Nghị Quốc Tế Sakyadhita về Đạo Phật và Phụ Nữ được tổ chức tại Đài Loan và được phát biểu bởi một tầng lớp rộng rãi những diễn giả từ thế giới Phật Giáo. Chúng tôi tin tưởng vững chắc rằng, những người Phật tử chúng ta có một đóng góp nổi bật để làm lợi ích cho nhân loại theo truyền thống và triết lý đạo Phật.... Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
16/11/2010(Xem: 7373)
Sống là làm cho mình càng ngày càng hoàn thiện hơn, theo đúng với sự tiến hóa của con người và thế giới. Tự hoàn thiện là tránh làm những cái xấu và trau dồi thêm những cái tốt. Trau dồi, bồi dưỡng, trồng trọt cũng là nghĩa chữ văn hóa (culture) trong tiếng phương Tây. Bất kỳ con người nào cũng muốn cuộc sống mình tiến bộ theo chiều hướng đúng hơn, tốt hơn, đẹp hơn. Không ai muốn điều ngược lại.
15/11/2010(Xem: 8440)
Nhiều thuật ngữ trong Đạo Pháp mang tính cách thật căn bản chẳng hạn như Giác ngộ hay sựQuán thấy sáng suốt(Bodhi),Vô thường(Anitya), sự Tương liêngiữamọi hiện tượng hay Lý duyên khởi(Pratityamutpada), v.v... Trong số này cómột thuật ngữ khá quan trọng là Khổ đau(Duhkha), tuy nhiên thuật ngữ này tươngđối ít được tìm hiểu cặn kẽ, có lẽ vì khổ đau là những gì quá hiển nhiên ai cũngbiết. Thật vậy tất cả chúng sinh đều gặp khó khăn nhiều hay ít không có một ngoạilệ nào cả.Lạm Bàn Về Khái Niệm « Khổ Đau » Trong Phật Giáo - Hoang Phong
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]