Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tập sách quý những lời dạy của Đức Phật về tự giải thoát (PDF)

07/12/201920:54(Xem: 11234)
Tập sách quý những lời dạy của Đức Phật về tự giải thoát (PDF)

Tập sách quý những lời dạy của Đức Phật về tự giải thoát
Tue-Giai-Thoat-Tam-Tinh
pdf-iconTập sách quý những lời dạy của Đức Phật về tự giải thoát

Trong Trung Bộ Kinh, Kinh 110 Tiểu Kinh Mãn Nguyệt, Đức Phật xác quyết trên thế gian này có những người theo chánh hạnh, chánh hướng tự mình chứng đạt với thắng trí đời này đời khác, và truyền dạy lại, như đoạn kinh văn sau đây về người bất chánh có tà kiến như người bất chánh, và người chơn chánh có chánh kiến như người chơn chánh

“Ở đời, không có những vị Sa-môn, những vị Bà-la-môn chánh hướng, chánh hạnh đã tự mình chứng đạt với thượng trí đời này và đời khác, và truyền dạy lại". Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người bất chánh có tà kiến như người bất chánh.

“Ở đời có những vị Sa-môn, những vị Bà-la-môn chánh hướng, chánh hạnh, đã tự mình chứng đạt với thượng trí đời này và đời khác, và truyền dạy lại.” Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người chơn chánh có chánh kiến như người chơn chánh.

(Trung Bộ Kinh- 110 Tiểu Kinh Mãn Nguyệt. Hòa Thượng Thích Minh Châu https://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung110.htm).

Nhờ vào hồng ân Tam Bảo và lực gia trì của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, của Chư Phật và Long Thần Hộ Pháp, bảy bài kết tập trong quyển tập này được khéo trích dẫn từ Nikàya (Pali tạng) và Hán tạng về tuệ giải thoát qua pháp thuần quán, trong đó Đức Phật đã chỉ dạy trong nhiều bài kinh với những cách trình bày khác nhau nhưng tựu chung cùng hướng đến mục đích tối thượng: giải thoát, niết bàn.

Bảy bài kết tập này được đăng rộng rãi trên các trang Phật Giáo chính thống và phổ biến như Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo, Tạp Chí Nghiên Cứu Phật Học, Phật Giáo.org, Trang Nhà Quảng Đức, Đạo Phật Ngày Nay, Thư Viện Hoa Sen, Người Phật Tử, Chùa A Di Đà vv.

Bài số một: “Tuệ Giải Thoát” được đăng trênTạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 319/2019 và nhiều trang web Phật Giáo chính thống khác, là tập hợp những bài kinh từ Nikàya về Tuệ quán vô thường, khổ và vô ngã của tất cả các pháp (ngũ uẩn giai không), và hành giả không để tâm trụ bất kể pháp nào, thì sẽ được giải thoát. Đặc biệt, những ai khéo và kiên tâm tu tập pháp thuần quán sẽ đưa đến giải thoát mà không có thần thông lực.

Bài số hai, “Để Tâm Vô Trụ Khi Làm Từ Thiện”, được đăng trên Tạp Chí Nghiên Cứu Phật Học số 5/2017 và nhiều trang web Phật Giáo chính thống khác, là một sự đúc kết về pháp môn ‘vô trụ’ qua năm thời giáo pháp của Phật Tổ từ Pali tạng đến Hán Táng, qua đó cho thấy tính tương đồng và nhất quán của Phật Giáo Nam Truyền và Phật Giáo Bắc Truyền về pháp vô ngã tướng. Đức Phật dạy bản tâm luôn thanh tịnh, chẳng động, chẳng sanh, chẳng khởi cho nên khi làm việc gì, khi nghĩ tưởng việc gì không nên sanh tâm chấp trước, tức là vô trụ, lìa tất cả tướng, thì hành giả sẽ được giải thoát.

Bài số ba, “Mười Một Cửa Giải Thoát”, được đăng rộng rãi trên nhiều web Phật Giáo chính thống như PHẬT GIÁO..org, Trang Nhà Quảng Đức: quangduc.com, Đạo Phật Ngày Nay, Thư Viện Hoa Sen vv, là sự kết tập những bài kinh Nikàya, đặc biệt kinh số 52 Bát Thành thuộc Trung Bộ trong đó Ngài Anan tuyên lại lời Phật dạy về mười một cách có thể giúp hành giả thoát mọi khổ đau: Bốn cửa từ tứ thiền hiện tại lạc trú, ba cửa từ tam thiền tịch tịnh trú, và bốn cửa từ tứ vô lượng tâm giải thoát. Hành giả chỉ cần thành tựu một pháp chẳng hạn như sơ thiền: ly dục, ly bất thiện pháp có tầm có tứ hoặc từ tâm giải thoát (sân tâm không còn ngự trị trong tâm), hoặc bi tâm giải thoát (hại tâm không còn ngự trị trong tâm) vv, từ đây hành giả tuệ tri sơ thiền, từ tâm giải thoát…, là pháp hữu vi, vô thường, chịu sự hoại diệt nên khổ, vô ngã, nên hành giả không sinh tâm chấp trước, như vậy hành giả sẽ được an ổn mọi khổ ách. Đặc biệt, bài kết tập này tập trung vào sự thù thắng của tứ vô lượng tâm giải thoát của đệ tử chân chánh của Như Lai so với những hành giả ngoại đạo khi thành tựu một trong bốn tâm này.

Bài số bốn, “Tự Tại Giữa ‘Có’ và ‘Không’”, được đăng trên Tạp Chí Nghiên Cứu Phật Học số tháng 9/2018, và nhiều trang web Phật Giáo chính thống khác, là một bài luận ứng dụng tính không trong đời sống hàng ngày để chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau thành an lạc, giải thoát từng phần, tiến đến giải thoát hoàn toàn.

Bài số năm, “Tưởng Vô Thường, Tưởng Vô Ngã, Thoát Mọi Khổ Đau”, được đăng trên các web Phật Giáo chính thống như PHẬT GIÁO.org, Đạo Phật Ngày Nay, Thế Giới Phật Giáo, Thư Viện Hoa Sen, Người Phật Tử…, là những bài kinh kết tập từ Nikàya và Hán tạng về pháp quán tưởng vô thường, tưởng vô ngã khi hành giả thường an trú, thường tu tập cho đến thành thục, thì sẽ nhổ lên sự kiêu mạn: Tôi Là, chứng đạt niết bàn ngay trong đời này.

Bài số sáu, “Chân Không Diệu Hữu, Tự Tại Thong Dong”, được đăng trên Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 330 _01/10/2019, và nhiều trang web Phật Giáo chính thống khác, là kết quả kết tập lời Phật dạy trong kinh Nikàya và Hán tạng, trong đó Thế Tôn chỉ hành giả cách an trụ tâm ở ‘không’, là sự an trụ cứu cánh giải thoát. Đặc biệt Đức Phật dạy ‘cái gì’ là hư vọng, ‘cái gì’ là chân đế (chân không), niết bàn: Hành giả tuệ tri tất cả pháp đều hư vọng do duyên hợp, duyên tan, duyên sanh, vô tự tánh, không thấy cái ta, cái tôi, cái của ta, cái của tôi trong tất cả hiện tượng vạn pháp do duyên sanh thì là diệu hữu vậy, vì thế không sanh tâm chấp trước nên giải thoát, chân đế (chân không). Đáng chú ý nhất là bài kinh 81 Pàrileyya Tương Ưng Uẩn cho thấy các lậu hoặc được đoạn tận ngay lập tức khi tuệ tri hành là vô thường, hữu vi do duyên sanh, thọ là vô thường, hữu vi do duyên sanh, khát ái vô thường, hữu vi do duyên sanh, thì sẽ thong dong tự tại giải thoát ngay lập tức.

Bài số bảy, “Đoạn Nghi Ngời Là Chơn Giải Thoát”, tập hợp những bài pháp của Thế Tôn về sự tín thọ pháp môn vô trụ do thấu hiểu bản tâm thanh tịnh vắng lặng, chẳng sanh, chẳng khởi, chẳng động nhưng thường sáng soi hay nói một cách khác khi thấu rõ chân diệu đế thì lập tức giải thoát.

Ngoài bài số bốn, tất cả những bài kết tập này là lời Phật dạy trong cả hai tạng kinh chính thống: Pali tạng và Hán tạng cho thấy hành giả thời nay hay về sau hay trước đây đều có thể thành tựu tuệ giải thoát khi khéo hành trì và kiên tâm với tuệ quán vô thường, vô ngã.

“Pháp và luật của ta là thầy của các con, và đừng nương tựa vào bất kể điều gì khác” là di huấn vàng ngọc của Đức Thích Tôn trước khi nhập vô dư niết bàn cho hàng hậu học, nhất là trong thời mạt pháp. Tâm Tịnh xin chân thành chia sẻ đến quý đạo hữu gần xa.

Có thể trong khi kết tập có những sai sót, xin quý đạo hữu cao minh ân cần chỉ bảo để chánh pháp phát triển sâu rộng khắp nhân gian, mang ánh sáng trí tuệ và từ bi đến mọi người, mọi nhà.

Như huyễn Tâm Tịnh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/07/2011(Xem: 9431)
Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn của Đại Sư Thật Hiền, Thật Hiền tôi là kẻ phàm phu Tăng bất tiếu ngu hèn, khóc ra lệ máu cúi đầu kính lạy, đau buồn khẩn thiết thưa với chư đại chúng hiện tiền, cùng với chư thiện nam tín nữ có đức tin trong sạch trong hiện đời. Cúi mong quý vị thương xót, lưu ý một chút mà nghe và xét cho.
27/07/2011(Xem: 9265)
Hỏi: Tại sao đạo Phật lại đề xướng ăn chay? Đáp:Người ăn chay thì dục niệm nhẹ. Kẻ ăn mặn thì dục niệm nặng nề. Có tôn giáo cho rằng động vật được sanh ra là để cho loài người ăn, cho nên ăn mặn là một việc hợp lý trời đất. Song le, Phật Giáo đề xướng tinh thần "mọi vật đều cùng một thể, đó gọi là Đại Bi," và xem mọi loài chúng sanh đều có Phật-tánh, đều sẽ thành Phật; cho nên chủ trương giới sát, phóng sanh.
27/07/2011(Xem: 8754)
Mỗi người đều có nhân quả báo ứng của riêng mình. Hễ tạo nghiệp gì thì chịu quả báo đó. Không những chỉ có loài người là phải chịu quả báo mà tất cả chúng sanh cũng vậy; tạo nghiệp từ xưa, ngày nay gặt quả. Điều đó không dễ hiểu đâu. Ví như bị đọa làm súc sinh hoặc ở nơi ác đạo thì rất khó khôi phục lại thân người; nên nói rằng:
26/07/2011(Xem: 9010)
Quyển “MỚI VÀO CỔNG CHÙA” ra đời trước, chúng tôi hướng dẫn độc giả vừa mới làm quen với mùi tương dưa, còn ngỡ ngàng khi bước chân vào cổng chùa. Đến quyển “VÀO CỔNG CHÙA”, chúng tôi nhắm đến những độc giả đã quen thuộc với những chiếc mái vốn cong, từng nghe tiếng mộc ngư nhịp đều buổi tối và tiếng chày kình ngân nga buổi khuya. Tuy nhiên vẫn còn là khách thấy nghe thân cận nhà chùa, chưa phải là người sống trong chùa.
24/07/2011(Xem: 8462)
Ngày nay, việc tổ chức đám cưới tại chùa có lẽ không mấy ai còn cho là lạ, nhưng đây là điều đã được mong muốn từ nửa thế kỷ trước, mà Ni trưởng trụ trì chùa Phước Hải hiện nay – ngày đó là sư cô Tịnh Nguyện, là một trong những vị tu sĩ mở đầu cho truyền thống tốt đẹp này. Một số người vẫn hình dung nhà thờ là nơi để tổ chức đám cưới với tiếng đàn Organ sang trọng, âm vang dưới mái vòm trang nghiêm phủ xuống cô dâu chú rể. Còn nhà chùa chỉ là nơi tổ chức đám tang, với những “vãng sanh đường” leo lét ánh nến, nhang khói mờ mờ, âm âm tiếng mõ trầm buồn.
22/07/2011(Xem: 7124)
Bạn bè là sự thể hiện sinh động cho mối quan hệ đặc thù giữa người với người. Mối quan hệ đó được thiết lập căn bản trên sự đồng đẳng hoặc bất đồng đẳng về giới tính, tuổi tác, chí nguyện, đam mê, sở thích,… là tiêu chí quan trọng để khẳng định nhân cách hoặc quan điểm sống của một con người. Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng, và là một trong những nhân tố quan trọng, có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực lên bối cảnh sống cũng như khả năng thăng hoa tâm linh của một con người. Sống phải có bạn bè. Không có bạn bè, được xem là một trong năm điều bất hạnh đã được Đức Phật cảnh báo(1).
22/07/2011(Xem: 7266)
Bên cạnh sự ảnh hưởng trực tiếp của gia đình, trong cuộc sống chúng ta, mối tương giao với bạn bè cũng đóng vai trò rất quan trọng cho sự thành bại của mình. Trong mối quen biết ngoài xã hội, hay trong đoàn thể cùng sống chung, ta có nhiều loại bạn hữu; nhưng tìm được người bạn tốt, chân thật hiểu được ta, để có thể chia sẻ tâm tư là điều khó, huống chi là hỗ trợ ta vượt qua những khó khăn trong đời sống thì càng khó gấp bội phần.
22/07/2011(Xem: 7014)
Suốt ngàn năm bị nội thuộc Trung Quốc dân tộc Việt không ngừng nỗi dậy đấu tranh giành lại quyền độc lập, tự chủ. Năm 968 (Mậu Thân) Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên nạn cát cứ 12 sứ quân, thống nhất non sông xưng là Đại Thắng Minh hoàng đế. Nhà Đinh đóng đô ở Hoa Lư (Ninh Bình), lập nên triều đại quân chủ đầu tiên của nước Đại Việt.
22/07/2011(Xem: 7461)
Có những biện giải Phật học mà đôi khi ý nghĩa thực tiển vượt thoát khỏi cái võ ngôn từ. Đó là khi hiện thực nương gá vào sự biện giải đó bị biến dạng theo lịch sử, thời gian. Gần gũi hơn, có những phạm trù, khái niệm mà khi vận dụng, ta vô tình quên mất nghĩa gốc ban đầu của chúng. Vấn dề Phật sự là một trường hợp như vậy.
16/07/2011(Xem: 7976)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]