Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

04. Cuộc Chiến Trong Pháp

17/08/201916:30(Xem: 5126)
04. Cuộc Chiến Trong Pháp

CUỘC CHIẾN TRONG PHÁP

 

(Thiền sư Ajahn Chah giảng bài Pháp này cho chư Tăng và các vị mới xuất gia tại tu viện Nong Pah Pong)

 

Tham lam, sân hận, si mê… là nhưng đối thủ cần phải chế ngự. Trong pháp hành của đạo Phật, con đường do Đức Thế Tôn khai sáng, chúng ta phải luôn nhẫn nại và dùng rất nhiều phương thức trong cuộc chiến với các đối thủ này.

Pháp và thế giới có mối quan hệ hỗ tương với nhau. Nơi đâu có pháp, ở đó có thế giới, nơi đâu có thế giới, ở đó có pháp. Nơi đâu có phiền não, ở đó có người chế ngự được phiền não, có cuộc chiến diễn ra. Đó còn được gọi là cuộc nội chiến. Đánh với kẻ thù bên ngoài, người ta sử dụng bom mìn, súng đạn; họ có thể thắng hoặc có thể thua. Cuộc chiến với kẻ thù bên ngoài vẫn thường diễn ra trên thế giới. Trong lúc thực tập pháp, chúng ta không đấu với kẻ thù bên ngoài mà là chiến đấu với tâm của mình, kham nhẫn, chịu đựng và bằng mọi cách phải điều phục được tâm.  

Khi thực tập pháp, chúng ta không nuôi dưỡng oán giận, thù hằn bên trong mình. Thay vì bị cuốn theo bất thiện pháp trong khi phản ứng, trong khi suy nghĩ, chúng ta thoát ra ngoài sự đố kỵ, ác cảm, oán giận kia. Lòng căm ghét chỉ có thể được chế ngự bằng cách không nuôi dưỡng oán giận, không cho phép có sự oán giận.

Những việc làm gây tổn thương hay có tính chất trả đũa tuy phần thể hiện có khác nhưng bản chất không khác nhau mấy. Mọi việc đã xảy ra, hãy để chúng đi qua, không cần thiết trả lời, trả thù hay oán hận gì cả. Đó là nghiệp (kamma). Việc trả đũa (vera) có nghĩa là tiếp tục đi xa hơn và trong đầu luôn mang ý nghĩ “anh đã làm thế với tôi, tôi sẽ quay lại báo thù anh”. Như thế, oán thù này sẽ không bao giờ có ngày chấm dứt. Lúc nào cũng tìm cách trả thù thì hận thù không bao giờ kết thúc. Cũng giống như sợi dây xích này, các mắc xích liên kết rất chắc, hận thù rồi trả thù, oan oan tương báo, không kết thúc được. Bất cứ ta đi nơi nào, hận thù mãi theo ta đến đó.

Bậc Tối Thắng Trí[1] đã ban giáo huấn cho cuộc đời, Ngài ban rải đức từ bi đến tất cả chúng sinh. Bậc Trí Tuệ nhìn vào thế giới này và chọn ra những chân giá trị. Lúc còn là Thái tử, Ngài đã thực thi nhiều cách và rồi Ngài nghiệm ra chúng thật sự không hữu dụng, chúng chịu giới hạn trong thế giới này, luôn bị xung đột và có nhiều trở ngại chi phối.  

Do vậy, trong khi tu tập, những vị đã cắt ái ly gia cần học cách, bằng mọi giá phải đoạn tận tâm bất thiện, từ bỏ mọi nguyên nhân khiến phát sinh tâm hận thù. Hãy chiến thắng chính mình, đừng cố tìm mọi cách để chiến thắng ai khác. Chúng ta đánh là đánh giặc phiền não, khi tâm tham khởi lên, liền tiêu diệt tham; khi tâm sân khởi lên, liền tiêu diệt sân; khi tâm si khởi lên, ta liền diệt si.

Đây còn gọi là “Pháp chiến hay cuộc chiến trong pháp”. Cuộc chiến trong ta mới thật sự nhiều khó khăn, khó khăn nhất trong tất cả cuộc chiến. Xuất gia để chiêm nghiệm điều này, để học diệu thuật chiến thắng tham, sân và si. Đây là trách nhiệm tiên quyết của tất cả chúng ta.

Trận nội chiến tức chiến đấu với phiền não. Nhưng ít người nhận ra điều này, phần lớn, họ tranh đấu với người ngoài, chuyện bên ngoài, thậm chí họ cũng không nhận diện được phiền não. Đức Thế Tôn dạy chúng ta, bằng mọi cách phải dập tắt tận gốc rễ tâm bất thiện và tu tập tâm hiền thiện. Đó là chánh đạo. Lời dạy này giống như Ngài bồng chúng ta lên và đặt trên con đường. Khi đặt trên đường rồi, bước đi hay đứng yên một chỗ là chuyện của chúng ta. Bổn phận của Ngài hoàn tất ở đây. Ngài chỉ cho con đường đúng đắn, chẳng phải con đường sai trái, phần việc còn lại dành cho chúng ta.  

Thế mà đã ở trên đường rồi, chúng ta vẫn không biết gì cả, chẳng thấy gì cả, nên giờ chúng ta cần phải học. Muốn học tốt, chúng ta phải chuẩn bị chịu đựng sự thử thách cam go, giống như những cô cậu học trò nhỏ mới bắt đầu đi học vậy. Việc tiếp thu kiến thức và học hỏi nhiều điều cần thiết để thành công trong sự nghiệp, thật không phải chuyện dễ dàng. Chúng ta phải chịu khó, chịu khổ. Khi có ý nghĩ sai quấy hay cảm thấy chán ghét, nản lòng, chúng ta phải tự thôi thúc mình trước khi tốt nghiệp khoá học hay nhận công việc. Việc tu tập của một vị xuất gia cũng y như thế. Nếu quyết định thực tập và quán chiếu, chắc chắn chúng ta sẽ thấy được lối đi.

Diṭṭhi-māna (thành kiến) là điều tai hại. Diṭṭhi có nghĩa là quan điểm hay ý kiến. Mọi hình thức của ý kiến, quan điểm đều được gọi là diṭṭhi: Thấy việc tốt thành xấu, việc xấu như tốt... bất cứ nghĩ điều gì, thấy điều gì. Thế cũng không có vấn đề gì. Vấn đề ở chỗ cố chấp vào những quan điểm ấy, đó gọi là māna; khư khư giữ quan điểm ấy, xem chúng hoàn toàn đúng đắn. Thế là chúng ta bị dắt dẫn, xoay tròn theo vòng sanh tử, chẳng bao giờ thoát ra được, chỉ vì chúng ta bám víu, cố chấp. Vì vậy, Đức Thế Tôn giục chúng ta hãy đoạn tuyệt ác pháp này.

Nhiều người sống chung với nhau, như chúng ta đang sống đây, nếu quan điểm của họ không bất đồng nhau, họ có thể sống một cách hoan hỷ, an lạc. Nhưng đôi khi, chỉ có hai hay ba vị sống với nhau lại hết sức khó khăn, chỉ vì quan điểm của họ bất đồng. Chúng ta phải tập khiêm tốn, dẹp đi quan điểm của mình, hiểu rằng tất cả chúng ta đến đây vì đều tôn kính Phật Pháp Tăng,[2] thì cho dù chúng ta sống đông bao nhiêu vẫn an ổn, tốt lành. 

Nói rằng, do sống chung đông đảo nên bất hòa là không đúng. Hãy nhìn xem con cuốn chiếu vô số chân. Nhìn nó, ta cứ nghĩ, nó đi đứng khó khăn lắm nhỉ! Nhưng không, nó đi dễ dàng, theo một trật tự và nhịp điệu riêng. Chúng ta thực tập cũng như thế. Nếu chúng ta được tu tập trong Tăng đoàn của bậc Thánh, được Đức Phật trực tiếp dẫn dắt, thật quá dễ dàng. Đó là supaṭipanno - những vị thực tập tốt; ujupaṭipanno - những vị thực tập thẳng tắt, ñāṇapaṭipanno - những vị thực tập vượt qua khó khăn và sāmīcīpaṭipanno - những vị thực tập một cách đúng đắn. Bốn đặc tính này đều đang có mặt trong mỗi chúng ta, làm cho chúng ta xứng đáng là phần tử chân chánh trong Tăng đoàn. Dầu chúng ta sống cùng nhau trong hội chúng hàng trăm, hay hàng ngàn vị đi nữa, cũng không có vấn đề gì về số lượng cả, tất cả chúng ta cùng đang du hành trên cùng một tuyến đường. Dù cho quan điểm có thể khác nhau, nếu thực tập đúng đắn, chúng ta không có xích mích. Cũng như tất cả con sông, con suối tuôn về biển cả, một khi đến biển chúng hòa vào biển, cùng một vị, một màu. Chúng ta cũng thế, bước vào dòng pháp, chỉ có pháp mà thôi. Dù từ nhiều nơi đến đây, chúng ta vẫn hài hòa, hợp nhất.

Suy nghĩ dẫn đến tranh luận và mâu thuẫn, còn gọi là diṭṭhi-māna. Vậy nên, Đức Thế Tôn nhắc chúng ta, hãy để quan điểm qua một bên. Không cho phép cố chấp vào các quan điểm cũng như những gì liên hệ với chúng.

Đức Thế Tôn còn dạy giá trị của Niệm (sati).[3] Mọi lúc chúng ta đứng, đi, ngồi hay nằm, bất cứ ở đâu, hãy làm cho năng lượng chánh niệm luôn có mặt. Khi niệm có mặt, chúng ta nhận diện được chính mình, nhận diện rõ các loại tâm và tâm sở đang có mặt. Chúng ta nhận diện rõ “thân trong thân, tâm trong tâm.” Nếu niệm không có mặt, chúng ta không nhận biết gì cả, cũng không biết việc gì đang diễn ra.

Vì vậy Niệm rất quan trọng. Lúc nào cũng vậy, lắng nghe lời Đức Thế Tôn dạy trong chánh niệm. Mắt thấy sắc là pháp, tai nghe âm thanh là pháp, mũi ngửi hương là pháp, lưỡi nếm vị là pháp, thân xúc chạm là pháp, ý tưởng khởi lên trong tâm là pháp, tất cả đều là pháp vậy. Người thường giữ chánh niệm luôn nghe được Đức Thế Tôn đang thuyết pháp. Pháp luôn hiện hữu. Tại sao? Vì có niệm, vì chúng ta đang tỉnh thức.

Sati là niệm, sampajañña là tỉnh giác. Tỉnh giác này chính là Phật. Khi có niệm - tỉnh giác, nhận thức đúng đắn có mặt ngay. Chúng ta nhận biết rõ việc gì đang diễn ra. Khi mắt thấy sắc: Đẹp hay không đẹp? Khi tai nghe âm thanh: Hay hoặc không hay? Nó có hại gì không? Đúng hay sai? Những việc khác cũng thế. Nghe trong nhận thức tỉnh giác, chúng ta nghe pháp trong mọi thời.

Hãy tỉnh giác như thế ngay lúc này đây, chúng ta đang học pháp Trung đạo. Dẫu đi tới, đi lui, chúng ta đều đối diện với pháp. Nếu chánh niệm tỉnh giác đang có mặt, tức thì xung quanh chúng ta đều là pháp cả. Thấy con vật đang chạy trong rừng, chúng ta có thể quay lại quán chiếu, thấy rằng động vật cũng không khác chúng ta. Chúng đang trốn chạy sự bất an, tìm kiếm sự bình an, cũng giống chúng ta vậy. Hễ không thích thì chúng tránh đi; chúng giống con người rất sợ chết. Nếu quán chiếu thế giới xung quanh cẩn thận, chúng ta thấy rằng tất cả chúng sinh trong thế giới này, kể cả con người, đều giống nhau về mặt bản năng cả. Quan điểm này còn gọi là “bhāvanā”,[4] thấy đúng với chân lý, vạn vật đồng hành trong quy luật sinh, già, bệnh, và chết. Động vật cũng giống con người, con người cũng giống động vật. Nếu nhận thức bản chất thật của vạn vật như thế, tâm chúng ta sẽ không còn tham luyến gì nữa cả.

Thế nên, chúng ta hãy tập chánh niệm trong mọi lúc. Chúng ta sẽ nhận biết được mọi trạng thái của tâm nếu chánh niệm có mặt. Chúng ta đang suy nghĩ hay đang có cảm giác gì, đều cần phải nhận biết rõ chúng. Sự nhận biết này được gọi là tỉnh giác (buddho, buddha), người đạt được sự tỉnh giác này gọi là vị Tỉnh Giác, vị Giác ngộ viên mãn. Khi tâm nhận thức một cách rõ ràng, viên mãn, tức chúng ta đang thực tập đúng pháp. 

Con đường thực tập thẳng tắt, đó là tập chánh niệm (sati). Năm phút quý vị không chánh niệm, tức năm phút quý vị mất trí, lơ đãng. Hễ thiếu chánh niệm, quý vị mất trí ngay. Chánh niệm là điều cần yếu. Có chánh niệm, biết rõ chính mình, biết rõ trạng huống của tâm, của cuộc sống quý vị. Có hiểu biết và nhận thức sáng suốt, chính là đang lắng nghe pháp mọi lúc. Sau khi bài pháp của vị Thầy đã dứt, quý vị vẫn còn nghe âm vang của pháp, vì pháp ở khắp mọi nơi.

Mỗi ngày, quý vị hãy tạo thói quen thực tập cho chính mình. Dù lười mỏi hay siêng năng, hãy thực tập đều đặn. Thực tập pháp không phải tuỳ theo tâm trạng của quý vị. Nếu thực tập theo tâm trạng của chủ nhân, đó không phải là pháp nữa. Bất luận ngày hay đêm, dù tâm bình lặng hay loạn vọng, hãy tinh tấn thực tập.

Giống như đứa trẻ đang học viết. Lúc đầu cậu ta viết không đẹp, có chữ lớn, có chữ dài, ngoằn ngoèo, nghệch ngoạc. Nét chữ giống y như cậu bé. Một thời gian sau, luyện tập nhiều, nét chữ của cậu tiến bộ. Thực tập pháp cũng giống như vậy. Ban đầu, quý vị lúng túng, vụng về, có lúc yên lặng, có lúc không, quý vị không nhận biết rõ ràng gì hết. Có người chán nản. Đừng nản chí! Quý vị phải kiên nhẫn thực tập. Cố gắng thực tập cũng giống như cậu học trò nhỏ, lớn dần, cậu càng viết đẹp hơn. Từ chữ viết như cua bò, cậu viết đẹp hẳn lên, tất cả đều nhờ vào việc siêng luyện tập từ lúc nhỏ.

Việc tu tập của chúng ta cũng vậy. Gắng tập chánh niệm trong mọi lúc, đứng, đi, ngồi hay nằm. Khi chúng ta làm nhiều công việc một cách nhịp nhàng, khéo léo, tức tâm ta đã có định tĩnh. Khi ta giữ được định tĩnh trong công việc, sự định tĩnh, an lạc trong lúc ngồi thiền rất dễ đạt được. Chúng có liên hệ với nhau. Vậy nên hãy tinh tấn. Quý vị hãy tinh tấn hành trì. Đó là chúng ta đang tu tập vậy.

 



[1] Bậc Tối Thắng Trí chỉ cho Đức Phật.

[2] Ba Ngôi Báu, đó là Phật, Pháp, Tăng. Phật tức Đức Phật, Pháp nghĩa là lời dạy của đức Phật. Tăng có nghĩa là Tăng đoàn hay những vị xuất gia đang hành trì hoặc đã nhận chân thông suốt pháp. 

[3] Sati: Có nghĩa là chánh niệm.

[4] Bhāvanā: Có nghĩa là tu tập, thường được dùng chỉ cho sự tu tập tâm (cittabhāvanā), hay tu tập tuệ (paññā-bhāvanā).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/12/2013(Xem: 59777)
Người ta thường nói :"Ăn cơm có canh, tu hành có bạn". Đối với tôi, câu nói này thật là quá đúng. Ngày nhỏ chưa biết gì nhưng từ khi làm Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử tôi đã thấy ích lợi của một Tăng thân. Chúng tôi thường tập trung thành từng nhóm 5,7 người để cùng nhau tu học. Giai đoạn khó khăn nhất là sau 75 ở quê nhà. Vào khoảng 1985, 86 các anh lớn của chúng tôi muốn đưa ra một chương trình tu học cho các Huynh Trưởng trong Ban Hướng Dẫn Tỉnh và những Htr có cấp nên đã tạo ra một lớp học Phật pháp cho các Htr ở Sàigòn và các tỉnh miền Nam. Nói là "lớp học" nhưng các Chúng tự học với nhau, có gì không hiểu thì hỏi quý Thầy, các Anh và kinh sách cũng tự đi tìm lấy mà học. Theo qui định của các Anh, Sàigòn có 1 Chúng và mỗi tỉnh có 1 Chúng. Chúng tu học của chúng tôi (Sàigòn) có tên là Chúng Cổ Pháp và phải thanh toán xong các bộ kinh sau đây trong thời gian tối đa là 3 năm:
29/11/2013(Xem: 24312)
Chúng tôi chọn viết đề tài dừng tâm sanh diệt là nhân có một Phật tử than: Trong đời tu hành của con có một chướng ngại mà con không vượt qua được, đó là những niệm tưởng lăng xăng. Nó quấy rầy luôn, cả những lúc nghỉ ngơi cũng không yên.
29/11/2013(Xem: 13989)
Gần đây, sau ngày Giáo Hội ra mắt cơ quan TTTT Trung ương, hàng loạt vấn đề nhạy cảm phơi bày mang tính méo mó của một số báo chí nói về những tu sĩ Phật giáo.
27/11/2013(Xem: 51065)
"Đức Đạt Lai Lạt Ma, Con Trai Của Tôi" là một tập tự truyện của Mẫu Thân Đức Đạt Lai Lạt Ma. Đây là một tập sách hấp dẫn do Cụ bà Diki Tsering, Mẹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma kể lại những chi tiết sinh động trong cuộc đời của mình, từ một phụ nữ nông thôn bình thường, bỗng chốc đã trở thành một người đàn bà có địa vị cao nhất trong xã hội, làm Mẹ của Đức Đạt Lai Lạt Ma, người lãnh đạo quốc gia Tây Tạng.
22/11/2013(Xem: 8835)
Lâu lắm rồi, tôi không dám đọc báo chí, không dám nghe radio, không dám bật TV. Ừ, thì cứ coi như mình đứng ngòai thời cuộc, tách xa thực tế. Nhưng biết làm sao khi thỉnh thoảng những tin tức vẫn từ một ngõ ngách nào đó của truyền thông đưa đến những tin đau lòng. Những tin như cha mẹ bán con, người người bán nhau dưới hình thức này hay hình thức khác. Rồi học trò đâm chém nhau, nữ sinh băng hoại, trẻ em tử vong vì thuốc dởm, v.v… Lại đến những hình ảnh thảm thương của những vụ thảm sát trong học đường, thảm sát trong khu vực buôn bán. Kinh khủng hơn là những cơn bão lũ, những trận cuồng phong, động đất. Đằng sau những tin đó, biết bao nhiêu cuộc đời cuốn xoay trong gió lốc!
21/11/2013(Xem: 10437)
Bão Haiyan đã đi qua, nỗi đau của người dân Philippines và cộng đồng thế giới vẫn còn đó. Bão Haiyan đã làm cho 3.600 người Philippines thiệt mạng và hàng trăm ngàn người phải sống trong cảnh đói khát, không nhà. Một mất mát quá lớn.
21/11/2013(Xem: 6762)
Tháng 9 năm 2013, Glen James, một người vô gia cư (homeless), sống ở một nơi cư trú dành cho người không nhà (shelter) ở Boston. Ông bất ngờ kiếm thấy một cái ba lô (backpack) ai bỏ quên trong một thương xá. Ông vẫy tay chặn một viên cảnh sát lại và trao cái ba lô lượm được cho viên cảnh sát. Cái ba lô trong đó có chứa $2,400 tiền Mỹ và gần 40,000 chi phiếu du lịch (traveler’s check) cùng với sổ thông hành và một số giấy tờ cá nhân khác.
12/11/2013(Xem: 21475)
Bataan là thành phố chính của đảo Luzon, Philippines, dân số khoảng trên 600 ngàn người. Lịch sử của thành phố chỉ hai biến cố được thế giới biết đến nhiều, một lần trong đệ nhị thế chiến và lần thứ hai trong làn sóng người tỵ nạn Cộng Sản vùng Đông Nam Á. Trong chiến tranh, trận phòng thủ Bataan là trận đánh cuối cùng trước khi liên quân Mỹ-Phi rút lui và trong làn sóng tỵ nạn, Bataan là nơi dừng chân của 300 ngàn người tỵ nạn, nhiều nhất đến từ Việt Nam. Ngoài ra, đảo Palawan với Làng Việt Nam nhiều huyền thoại cũng là nơi dừng chân của nhiều chục ngàn người Việt.
10/11/2013(Xem: 44632)
9780975783085, Cách phi trường quốc tế Melbourne 15 phút lái xe, theo Western Ring Road và exit vào Hume High Way, sau đó quẹo trái từ đường Sydney road, đi vào con đường Lynch thân thương, khách hành hương sẽ nhìn thấy một quần thể kiến trúc nổi bật trong vùng cư dân này, đó là Bảo Tháp Tứ Ân và cổ lầu của chánh điện Tu Viện Quảng Đức, tọa lạc tại số 105 Lynch Road, vùng Fawkner
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]