Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 09: Trau Dồi Hành Xả

08/01/201920:33(Xem: 4559)
Chương 09: Trau Dồi Hành Xả

CHƯƠNG 9:  TRAU DỒI HÀNH XẢ

 

 

 

Thursday, October 18, 2012

 

Để cảm nhận lòng bi mẫn thật sự cho tất cả chúng sanh, chúng ta phải loại trừ bất cứ sự thiên vị thành kiến nào từ trong thái độ của chúng ta đối với họ.  Cái nhìn của chúng ta đối với họ bị khống chế bởi những cảm xúc thay đổi bất thường và phân biệt.  Chúng ta có một cảm nhận gần gũi đối với những người thân.  Đối với những người lạ hay người quen chúng ta cảm thấy xa cách.  Và rồi thì đối với những người chúng ta nhận thức như thù địch, không thân thiện, hay cách biệt, chúng ta thấy có ác cảm hay khinh thường.  Tiêu chuẩn cho sự phân loại mọi người như bạn bè hay kẻ thù dường như thẳng thắn.  Nếu một người gần gũi chúng ta và đã tử tế với chúng ta, người ấy là bạn.  Nếu người ấy gây khó khăn hay làm tổn hại chúng ta người ấy là kẻ địch.  Hòa lẫn sự yêu mến cho những người thân thương là các cảm xúc như luyến ái và tham muốn gây cảm hứng thân mật đam mê.  Tương tự thế, chúng ta nhìn những người chúng ta không thích với các cảm xúc tiêu cực như sân hận hay thù ghét.  Hậu quả, lòng bi mẫn của chúng ta đối với người khác bị giới  hạn, cục bộ, gây hại, và bị điều kiện hóa cho dù chúng ta có cảm thấy gần gũi với họ hay không.

 

Lòng bi mẫn chân thành phải là không điều kiện.  Chúng ta phải trau dồi sự hành xã nhằm để vượt khỏi bất cứ cảm giác phân biệt hay cục bộ nào.  Một cách để trau dồi hành xã là quán chiếu tính không bền chắc của tình thân hữu.  Trước nhất, chúng ta phải xem là không có gì bảo đảm rằng người bạn thân hôm nay sẽ vẫn là một người bạn mãi mãi.  Tương tự thế, chúng ta có thể tưởng tượng rằng việc không thích một người nào đó sẽ không nhất thiết tiếp tục vô hạn.  Những sự quán chiếu như vậy trao truyền những cảm giác mạnh mẽ của chúng ta về tính cục bộ , làm hao mòn cảm nhận về tính không thay dổi của những sự luyến ái hay dính mắc của chúng ta.

 

Chúng ta cũng có thể quán chiếu trên những hậu quả tiêu cực của luyến ái mạnh mẽ với những người bạn và sự oán ghét với những kẻ thù.  Những cảm giác của chúng ta cho một người bạn hay một người thân đôi khi làm chúng ta mù quáng đối với những khía cạnh nào đấy của người ấy.  Chúng ta phóng chiếu vọng tưởng một phẩm chất tuyệt đối đáng ước ao, tuyệt đối không sai lầm, trên  người ấy.  Rồi thì khi chúng ta thấy điều gì đấy mâu thuẫn với sự phóng chiếu của chúng ta, chúng ta bị choáng voáng.  Chúng ta quay ngoắt từ cực đoan của yêu đương và tham muốn đến thất vọng, ghê tởm, và đôi khi giận dữ.  Ngay cả cảm giác toại nguyện và hài lòng nội tại trong một mối quan hệ với người nào đấy chúng ta yêu mến có thể đưa đến thất vọng, chán nãn, và thù hận.  Mặc dù những cảm giác mạnh mẽ như những ai với tình yêu lãng mạn hay thù hận chính đáng, có thể động lòng trắc ẩn một cách sâu sắc, nhưng `sự vui sướng của chúng là thoáng qua như phù du.  Theo quan điểm của Phật Giáo, tốt nhất là đừng ở trong gọng kềm của những cảm xúc như vậy ngay từ đầu.

 

Hậu quả của việc bị áp đảo bởi việc không thích mãnh liệt là gì?   Tạng ngữ cho thù hận là, shedang, nói đến thái độ thù địch từ chiều sâu trái tim con người. Có một tính bất hợp lý nào đó trong việc đáp ứng đến tình trạng bất công hay tổn hại với sự thù địch.  Sự thù hận của chúng ta không có ảnh hưởng vật lý đến những kẻ thù của chúng ta; nó không gây hại cho họ.  Đúng hơn, chính là chúng ta là những người khổ não với các hậu quả bệnh hoạn của những cay đắng tràn ngập như vậy.  Nó gậm nhấm chúng ta từ bên trong.  Với sân hận, chúng ta từ từ bắt đầu không còn ăn ngon miệng.  Chúng ta không thể ngủ về đêm và thường kết cục bằng việc lăn qua lộn lại cả đêm dài.  Nó tác động chúng ta một cách sâu sắc, trong khi kẻ thù chúng ta tiếp tục nhởn nhơ sung sướng không hay biết gì về tình trạng suy đồi của chúng ta.

 

Giải thoát khỏi thù oán và sân hận, chúng ta có thể đáp ứng đến các hành động chống lại chúng ta một cách hiệu quả sâu xa hơn nhiều.  Nếu chúng ta tiếp cận mọi việc với một đầu óc điềm tĩnh, chúng ta sẽ thấy vấn đề một cách rõ ràng hơn và phán quyết một cách tốt nhất để biểu lộ nó.  Thí dụ, nếu một đứa bé đang làm điều gì đó có thể nguy hiểm cho nó hay người khác, chẳng hạn như đùa với diêm quẹt, chúng ta có thể rầy la nó.  Khi chúng ta cư xử trong một thái độ rõ ràng dứt khoát, có một cơ hội vô cùng lớn lao rằng các hành động của chúng ta sẽ đánh trúng mục tiêu.  Đứa bé sẽ đáp ứng không phải với sự giận dữ của chúng ta mà là đối với cảm nhận cấp bách và quan tâm của chúng ta.

 

Đây là vấn đề chúng ta đi đến thấy rằng kẻ thù thật sự của chúng ta đúng là ở bên trong chúng ta.  Chính là vị kỷ, luyến ái, và sân hận đã làm tổn hại chúng ta.  Nhận thức về năng lực kẻ thù gây ra tai hại cho chúng ta hoàn toàn thật sự giới hạn.  Nếu ai đấy thách thức chúng ta và chúng ta có thể thẩm tra kỷ luật nội tại để cưởng lại sự trả thù, có thể là bất chấp những gì người kia đã làm, các hành vi ấy không quấy nhiễu chúng ta.  Trái lại, khi những cảm xúc mạnh mẽ như sự sân hận, thù oán, hay tham muốn cực độ sinh khởi, chúng tạo nên sự rối loạn tinh thần vào thời khắc chúng xảy ra trong tâm thức chúng ta.  Chúng lập tức đục khoét sự hòa bình tinh thần của chúng ta và tạo nên một sự khai mở cho bất hạnh và khổ não để hủy hoại những thực hành tâm linh của chúng ta.

 

Khi chúng ta hành động với việc phát triển hành xả, chúng ta có thể quán sát thấy rằng chính khái niệm kẻ thù và thân hữu là có thể thay đổi và lệ thuộc trên nhiều nhân tố.  Không ai sinh ra là kẻ thù hay bạn hữu và thậm chí không có một bảo đảm rằng những người thân sẽ luôn luôn là thân hữu.  Bạn và thù được định nghĩa trong hình thức của những con người và sự đối xử của họ đối với chúng ta.  Những người mà chúng ta tin tưởng có tình cảm đối với chúng ta, yêu thương và chăm sóc chúng ta, thông thường chúng ta xem như những bạn bè và người thân.  Những ai chúng ta tin tưởng có tình cảm không thân thiện và các khuynh hướng tổn hại đối với chúng ta là những kẻ thù của chúng ta.  Chúng ta do thế nhìn xem những người như thân hữu hay kẻ thù căn cứ trên nhận thức của chúng ta về những tư tưởng và cảm xúc họ ngấm ngầm nuôi dưỡng đối với chúng ta.  Do vậy, không ai một cách căn bản là bạn bè hay kẻ thù của chúng ta.

 

Chúng ta thường lẫn lộn các hành động của một người với con người thật sự.  Thói quen này đưa chúng ta đến kết luận rằng do bởi một hành động hay một tuyên bố đặc thù, thì một người là kẻ thù của chúng ta.  Tuy nhiên con người là trung tính.  Họ không phải là kẻ thù hay thân hữu, Phật Giáo hay Ki Tô Giáo, Trung Hoa hay Tây Tạng.  Như kết quả của những hoàn cảnh, con người chúng ta nắm giữ trong quan kiến của chúng ta có thể thay đổi và trở thành người bạn thân thiết nhất của chúng ta.  Cái tư tưởng, "Ô, bạn thường rất ác với tôi trong quá khứ, nhưng bây giờ chúng ta đúng là những người bạn tốt của nhau" không phải là không thể tưởng tưởng được.

 

Một cách khác của việc trau dồi hành xả và vượt khỏi những cảm giác của chúng ta về cục bộ và phân biệt là phản chiếu trên vấn đề tất cả chúng ta là bình đẳng trong nguyện vọng hạnh phúc và vượt thắng khổ não như thế nào.  Thêm nữa, tất cả chúng ta cảm thấy rằng chúng ta có một quyền căn bản để hoàn thành nguyện vọng ấy.  Chúng ta chứng minh quyền này là đúng như thế nào?  Rất đơn giản, nó là một phần trong bản chất nền tảng của chúng ta.  Tôi không phải là duy nhất; tôi không có đặc quyền đặc biệt.  Bạn không phải là độc nhất, bạn cũng không nắm giữ những đặc ân.  Nguyện vọng của tôi là hạnh phúc và vượt thắng khổ não là một phần trong bản chất nền tảng của tôi, như nó là một bộ phận của bạn.  Nếu điều này là như vậy, thế thì giống như chúng ta, tất cả mọi người khác có quyền để hạnh phúc và vượt thắng khổ não, một cách đơn giản bởi vì họ cùng chia sẻ bản chất nền tảng này.  Chính là trên cản bản của sự bình đẳng này mà chúng ta phát triển sự hành xả đối với tất cả.  Trong hành thiền, chúng ta phải hành động với việc trau dồi thái độ "giống như chính tôi có khát vọng hạnh phúc và chiến thắng khổ đau, tất cả mọi người khác cũng vậy, và giống như tôi có quyền tự nhiên để hoàn thành nguyện vọng này, tất cả mọi người khác cũng vậy".  Chúng ta phải lập lại tư tưởng này khi chúng ta hành thiền và khi chúng ta hành động trong đời sống, cho đến khi nó hòa tan trong sự tỉnh thức của chúng ta.

 

 Có một điều quan trọng cuối cùng.  Như những con người, sự cát tường của chúng ta lệ thuộc rất nhiều trên những người khác, và chính sự sống còn của chúng ta là kết quả của những sự đóng góp được tạo nên bởi rất nhiều người khác.  Sự ra đời của chúng ta lệ thuộc vào cha mẹ chúng ta.  Sau đó chúng ta cần sự chăm sóc và tình cảm của cha mẹ trong nhiều năm.  Cuộc sống, sự cư trú, kế sinh nhai, ngay cả sự thành công và tiếng tăm của chúng ta, là kết quả của những sự đóp góp được làm ra bởi vô số con người đồng loại.  Cho dù trực tiếp hay gián tiếp, vô số người khác liên hệ trong sự sống còn của chúng ta - chưa nói đến hạnh phúc của chúng ta.

 

Nếu chúng ta mở rộng mở rộng dòng lý trí này vượt khỏi giới hạn của một kiếp sống đơn độc, chúng ta có thể tưởng tượng rằng suốt khắp những kiếp sống quá khứ của chúng ta - trong thực tế, vì thời gian không có bắt đầu - vô số người khác đã làm những sự đóng góp đối với lợi ích của chúng ta.  Chúng ta kết luận, "Những nền tảng nào mà ta phải phân biệt?  Chúng ta gần gũi với người nào đó và thù đối với những người khác như thế nào?  Ta phải vượt lên trên tất cả mọi cảm giác của cục bộ và phân biệt.  Ta phải làm lợi ích đối với tất cả, một cách bình đẳng!"

 

 

THIỀN TẬP CHO HÀNH XẢ

 

Chúng ta rèn luyện tâm thức chúng ta như thế nào để nhận thức sự bình đẳng căn bản của tất cả chúng sanh? Tốt nhất để trau dồi cảm nhận hành xả là bằng việc tập trung trước nhất trên những người xa lạ hay quen biết tương đối, những ai mà chúng ta không cảm giác mạnh mẽ cách này hay cách khác.  Từ đấy chúng ta phải hành thiền một cách vô tư, di chuyển từ những người bạn và sau đó là những kẻ thù.  Trên việc đạt đến một thái độ không thiên vị đối với tất cả chúng sanh, chúng ta phải hành thiền trên lòng từ ái, nguyện ước họ đạt đến hạnh phúc mà họ tìm cầu.

 

Hạt giống của bi mẫn sẽ lớn mạnh nếu chúng ta gieo trồng nó trong đất phân, một ý thức thấm đẩm với lòng từ ái.  Khi chúng ta đã tưới tẩm tâm thức chúng ta với lòng từ ái, chúng ta có thể bắt đầu hành thiền trên bi mẫn.  Lòng bi mẫn, ở đây, đơn giản là nguyện ước tất cả chúng sanh được giải thoát khỏi khổ não.

 

Sunday, October 21, 2012 / 16:05:27

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2015(Xem: 7065)
Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của Phật Giáo Tây Tạng là tương duyên sanh khởi hay duyên sanh. Không điều gì có thể tồn tại hay có thể xảy ra trên chính nó mà không liên hệ và nương tựa vào những nhân tố khác. Hơn thế nữa, mọi thứ sinh khởi từ một phức hợp của nhiều nguyên nhân và hoàn cảnh; không thứ nào sinh khởi từ việc chỉ dựa trên một nguyên nhân hay từ hoàn toàn không nguyên nhân. Thí dụ, một thân thể khỏe mạnh sinh khởi, trên trình độ nội tại, lệ thuộc trên tất cả những nội tạng và hệ thống chức năng của nó biểu hiện trong sự hòa điệu với nhau.Về trình độ ngoại tại, sức khỏe tốt cũng tùy thuộc vào thuốc men, dinh dưỡng, sự săn sóc ân cần từ người khác, môi trường, và v.v… Tương tự thế, một xã hội lành mạnh sinh khởi, trên trình độ nội tại, lệ thuộc vào toàn thể những nhóm thành viên của nó hợp tác với nhau và hoạt động hòa hiệp với nhau. Ở trình độ ngoại tại, xã hội lành mạnh cũng tùy thuộc vào những nhân tố kinh tế, chính trị môi trường, cũng như hoàn cảnh thế giới
20/01/2015(Xem: 7074)
Một nhóm 50 người đang tham dự một seminar, đột nhiên diễn giả ngừng lại và đề nghị nhóm tham gia một hoạt động, ông ta đưa cho mỗi người một quả bóng bay và yêu cầu từng người viết tên của mình lên quả bóng bay. Sau đó, những quả bóng bay được đưa tới một căn phòng khác. Những người tham dự bước vào căn phòng có những quả bóng và phải tìm ra quả bóng có tên của họ trong vòng 5 phút. Mọi người đều cố gắng tìm quả bóng có tên của mình, xô đẩy những người khác và đẩy các quả bóng khác sang một bên. Khung cảnh rất hỗn độn.
18/01/2015(Xem: 7716)
Đức Đạt Lai Lạt Ma từng dạy rằng tiền bạc không mang lại hạnh phúc, vì hạnh phúc thuộc về lãnh vực tinh thần, con người không thể mua được, kể cả máy móc cũng không thể cung cấp cho chúng ta chút hạnh phúc nào cả: “Tiền bạc và giàu sang chỉ mang lại cho con người một phần nào hạnh phúc, chứ không thể có hạnh phúc trọn vẹn. Không ai có thể ban phát cho chúng ta hạnh phúc, hạnh phúc đến từ trong tâm của chính chúng ta. Tâm bình an chính là nguồn hạnh phúc tuyệt vời nhất. Nó không tùy thuộc vào ngoại cảnh. Cuộc sống của chúng ta dù tiện nghi vật chất không đầy đủ, học vấn thời tầm thường hay sự nghiệp công danh không mấy thành công thời cũng chẳng sao, miễn là tâm chúng ta an lạc.” (Live In A Better Way.)
17/01/2015(Xem: 14293)
Trong kinh A Hàm lại kể một câu chuyện như sau: Có một người ngoại đạo tên Tu Nhàn Đề đến yết kiến Đức Phật để bài bác chủ trương xa lìa ngũ dục của Phật giáo. Sau khi Đức Phật dùng đạo lý giáo hóa thì ông tỉnh ngộ và bấy giờ Đức Phật mới nói cho ông nghe bài kệ: Không bịnh lợi bậc nhất Niết bàn vui bậc nhất. (Tịch diệt vi lạc)
17/01/2015(Xem: 11567)
Trái đất đang đi vào chỗ chết: rừng rú, tài nguyên đang bị khai thác kịch liệt, ô nhiễm tràn đầy mọi xứ, nhiệt độ khắp quả đất ngày càng lên cao, cả ngàn súc vật bị giết để tế thần, đất đai của người nghèo bị chính quyền mua rẻ để xây cất... Lúc này hơn lúc nào hết chúng ta phải đọc lại các bài học của người xưa để lại, để suy ngẫm và hành sự.
17/01/2015(Xem: 8577)
Jean-Paul Ribes sinh năm 1939, một nhà văn và nhà báo chuyên về Tây Tạng, và cũng là một người tu tập Phật Giáo đã hơn bốn mươi năm. Ảnh chụp ngày 27 tháng 4, năm 2008, trong một cuộc phỏng vấn của một chương trình Phật Giáo trên đài truyền hình quốc gia Pháp) Người ta thường xem phi-bạo-lực là một trong các phẩm tính tự nhiên của Phật Giáo. Điều này quả hết sức đúng. Thế nhưng sự phi-bạo-lực ấy có phải là một trong các mục tiêu hay chỉ là một phương pháp luyện tập chủ yếu của Phật Giáo? Câu hỏi thật tế nhị.
16/01/2015(Xem: 21548)
Ram Bahadur Bomjan, 01 cậu trai trẻ (sinh ngày 09 -tháng 04 -1990) đã ngồi thuyền định trong suốt 06 năm,mà không dùng bất kỳ thức ăn, nước uống nào, từ ngày 17 -05 -2005 đến ngày 17 -05 -2011. Với mong muốn đem lại thông điệp Hòa Bình và Yêu Thương Của Đấng Thiêng Liêng đến Toàn Thể Nhân Loại. Mong rằng mọi người hãy truyền bá thông điệp này rộng rãi hơn, và hãy thật sự yêu thương nhau như yêu chính bản thân mình. Ngài không khác gì 01 vị Bồ Tát tái sinh. Ngày nay người ta gọi Ngài là Dharma Sangha. Quý vị có quyền đặt câu hỏi với điều này "Đây có phải là sự thật hay là trò nhảm nhí, và anh ta làm vậy để làm gì và được gì ?" Dù cho Niềm Tin của quý vị có đặt ở đâu đi nữa, chỉ mong quý vị hướng đến việc Thiện, tránh xa việc Bất Thiện.Và nếu như chúng ta đã từng lầm lỗi cũng chẳng sao, vì vốn dĩ đâu ai hoàn thiện, nhưng quan trọng là chúng ta biết sai,chịu sửa, không tái phạm , điều đó đáng quý hơn. Xin hãy truyền bá thông điệp yêu thương này đến tất cả mọi người. Mong bình an và hạnh
15/01/2015(Xem: 9413)
Mùa xuân, vạn vật sinh trưởng. Ngắm một cây thân mộc hay thân thảo, ta thấy chúng đều đang chuẩn bị sinh lực để phát triển cành nhánh, nảy lộc, đơm hoa rồi kết trái. Con người cũng vậy, bé thơ, thiếu niên rồi thanh niên... Cái cây thì nó phát triển toàn bộ. Con người cũng phát triển toàn bộ cả phần vật chất và phần tinh thần. Thân vật chất thì tương tợ nhau nhưng phần tinh thần thì nó phát triển rất phức tạp.
14/01/2015(Xem: 7607)
Tiếng Hồng chung Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang nói riêng và các chùa trong thành phố Nha trang nói chung, sớm khuya ai cũng có thể nghe được, nhưng nghe để “Trí tuệ lớn” và “Bồ-đề sinh” thì tùy theo “phiền não” của đối tượng nghe có vơi nhẹ hay không? Riêng với nhà văn Võ Hồng, qua tác phẩm “Tiếng chuông triêu mộ” cho thấy Trí tuệ và Bồ đề của ông sanh trưởng tốt. Nhưng nhân duyên như thế cũng chưa đủ, ông là giáo sư của PHV, của trường Bồ Đề, là thiện tri thức của các bậc cao Tăng ở đồi Đông và đồi Tây non Trại Thủy. Có thế mới có truyện ngắn “Cây khế lưng đồi”, có tùy bút “Con đường thanh tịnh”. Thưa thầy Võ Hồng, chừng ấy đủ rồi, đủ cho PHV đi vào lịch sử văn học, đủ cho 100 năm sau, 1000 năm sau hay nhiều hơn thế nữa, nhìn thấy PHV uy nghi như một Linh Thứu thời Phật và cũng cho thấy các bậc cao Tăng Miền Trung nói riêng xứng đáng là những Sứ giả Như Lai đầy trách nhiệm đối với sự trường tồn của Phật giáo Việt Nam.
14/01/2015(Xem: 7666)
Tháng 10 năm 2014, Đức Đạt-lai Lạt-ma có một buổi thuyết giảng tại thành phố Boston trong chuyến viếng thăm Hoa kỳ. Một Phật tử Việt Nam tại đại học MIT (Massachusetts Institute of Technology) đã tham dự và trong dịp này có mua một tấm tranh treo tường ghi lại một lời giảng của Ngài gửi sang Pháp tặng tôi. Cử chỉ ấy khiến tôi không khỏi cảm động nhưng cũng không tránh khỏi một chút áy náy, bởi vì tôi chỉ quen biết người bạn trẻ này qua mạng internet thế nhưng chưa bao giờ gặp mặt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]