Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 08: Thiền Tập Về Bi Mẫn

08/01/201920:32(Xem: 4674)
Chương 08: Thiền Tập Về Bi Mẫn
 

CHƯƠNG 8: THIỀN TẬP VỀ BI MẪN

 

 

 

Wednesday, October 17, 2012

 

 

BI MẪN VÀ TÁNH KHÔNG

 

Bi mẫn mà chúng ta phải sở hữu một cách căn bản xuất phát từ tuệ giác nội quán vào trong tánh không, bản chất cứu kính của thực tại.  Chính là tại điểm này mà sự bao la gặp gở với thâm sâu.  Bản chất cứu kính này, như được giải thích trong Chương 6, "Sự Bao La và Thâm Sâu", là việc vắng bóng  sự tồn tại cố hữu trong tất cả mọi khía cạnh của thực tại, sự vắng bóng đặc tính thực chất nội tại trong tất cả mọi hiện tượng.  Chúng ta quy cho phẩm chất tồn tại cố hữu (có tự tánh) đối với tâm thức và thân thể chúng ta, và rồi thì nhận thức vị thế mục tiêu này - tự ngã, hay cái "tôi".  Cảm nhận mạnh mẽ về tự ngã sau đó chấp trước vào một loại hiện tượng cố hữu bản chất, chẳng hạn như phẩm chất của xe trong một chiếc xe mới mà chúng ta thích hay tưởng tượng.  Và như một kết quả cụ thể hóa như vậy và sự chấp trước sau đó, chúng ta cũng có thể trải nghiệm những cảm xúc chẳng hạn như giận dữ hay khó chịu trong sự kiện chúng ta bị phản đối với những gì chúng ta mong muốn: chiếc xe, máy điện toán mới, hay bất cứ thứ gì có thể.  Sự cụ thể hóa đơn thuần có nghĩa là chúng ta cho đối tượng ấy một thực tại mà chúng không có.

 

Khi bi mẫn phối hợp với sự thấu hiểu này về vấn đề tất cả những khổ não của chúng ta xuất phát từ sự nhận thức sai lầm về bản chất của thực tại như thế nào, thì chúng ta đã đạt đến bước tiếp theo trên hành trình tâm linh của chúng ta.  Khi chúng ta nhận thức rằng căn bản của khốn khó là nhận thức sai lầm này, sự chấp trước sai lầm này tại tự ngã không tồn tại, thì chúng ta thấy rằng khổ não có thể được loại trừ.  Một khi chúng ta đã loại trừ nhận thức sai lầm, chúng ta sẽ không còn bị rắc rối bởi khổ đau.

 

Việc biết rằng khổ não con người có thể tránh được, rằng có thể vượt qua nó được, sự thông cảm của chúng ta cho sự bất lực không thể tự giải thoát của họ đưa đến một lòng bi mẫn năng động hơn.  Bằng trái lại, mặc dù lòng bi mẫn của chúng ta có thể là mạnh mẽ, thì lại thường có một phẩm chất của thất vọng, ngay cả tuyệt vọng.

 

 

THIỀN QUÁN VỀ BI MẪN VÀ TỪ ÁI NHƯ THẾ NÀO.

 

 Nếu chúng ta thật sự có ý định phát triển lòng bi mẫn, chúng ta phải dành nhiều thời gian cho việc ấy hơn là những buổi thiền tập nghi thức cho chúng ta.  Đấy là mục tiêu chúng ta phải tự hành động với tất cả trái tim chúng ta.  Nếu chúng ta thật có thời gian mỗi ngày khi chúng ta muốn ngồi xuống và quán chiếu, điều ấy rất tốt.  Như tôi đã đề nghị, buổi sáng sớm là thời gian tốt cho sự quán chiếu như vậy, vì tâm trí chúng ta đặc biệt trong sáng vào những lúc như vậy.  Tuy nhiên, chúng ta dâng hiến nhiều thời gian hơn là chỉ với thời điểm này trong việc trau dồi lòng bi mẫn.  Thí dụ, trong những buổi tu tập nghi thức hơn, chúng ta làm việc với sự phát triển lòng trắc ẩn và gần gũi với người khác.  Chúng ta quán chiếu trên tình trạng khốn khó của họ.  Và một khi chúng ta đã phát sinh một cảm nhận bi mẫn chân thật trong chính chúng ta, chúng ta nên kiên nhẫn với nó, chỉ đơn giản trải nghiệm nó, sử dựng thiền ổn định  mà tôi đã diễn tả để duy trì sự tập trung, mà không áp dụng suy tư hay lý trí.  Điều này có thể cho phép nó thẩm thấu vào.    khi cảm nhận bắt đầu yếu kém, chúng ta lại áp dụng lý trí để lại thôi thúc lòng bi mẫn của chúng ta.  Chúng ta thực hành giữa hai loại thiền tập này, nhiều như người thợ gốm làm việc với đất sét của họ, làm đẩm ướt nó và rồi nhào nặn nó khi họ thấy cần thiết.

 

Tốt nhất, thông thường, khi khởi đầu chúng ta không nên dành quá nhiều thời gian trong thiền tập nghi thức.  Chúng ta sẽ không phát sinh lòng bi mẫn cho tất cả chúng sanh qua một đêm.  Chúng ta sẽ không thành công trong một tháng hay một năm.  Nếu chúng ta có thể giảm thiểu những bản năng vị kỷ và phát triển thêm một ít sự quan tâm cho người khác trước khi chúng ta chết, như thế chúng ta đã làm cho kiếp sống này của chúng ta hữu ích.  Nếu, thay vì thế, chúng ta tự thúc ép mình đạt đến Quả Phật trong một thời gian ngắn, chúng ta sẽ sớm bị mệt mõi trong sự thực tập của mình.  Chỉ nhìn thấy chỗ ngồi nơi chúng ta thực hành buổi thiền tập chính thức buổi sáng sẽ kích thích sự đề kháng.

 

 

ĐẠI BI

 

Như được nói rằng thể trạng cứu kính của Quả Phật có thể đạt đến trong một kiếp sống con người.  Đây là cho những hành giả phi thường, những người đã dâng hiến trong nhiều kiếp sống để chuẩn bị chính họ cho cơ hội này.  Chúng ta chỉ có thể cảm thấy ngưỡng mộ cho những chúng sanh như vậy và sử dụng gương mẫu của họ để phát triển lòng kiên trì bền chí thay vì thúc ép mình đến bất cứ cực đoan nào.  Tốt nhất là theo đuổi con đường trung đạo giữa thờ ơ và cuồng tín.

 

Chúng ta phải bảo đảm rằng bất cứ điều gì chúng ta làm, chúng ta cũng duy trì hiệu quả hay ảnh hưởng từ việc thiền tập của chúng ta vì thế nó sẽ định hướng những hành động khi chúng ta sống trong đời sống hàng ngày.  Bằng việc làm như thế, mỗi việc chúng ta làm bên ngoài những buổi thiền tập nghi thức sẽ trở thành một bộ phận của việc rèn luyện lòng bi mẫn.  Thật không khó để chúng ta phát triển lòng thông cảm cho một đứa bé trong bệnh viện hay nổi buồn về cái chết của người phối ngẫu của một đồng nghiệp.  Chúng ta phải bắt đầu quan tâm đến vấn đề làm thế nào để giữ trái tim chúng ta cởi mở đối với những ai chúng ta thường ganh tỵ, những ai thụ hưởng các lối sống cao quý hay giàu sang.  Với một nhận thức sâu sắc hơn bao giờ hết về khổ não là gì đạt được từ trong những buổi thiền tập, chúng ta trở nên có thể liên hệ đến những người như vậy với lòng bi mẫn.  Cuối cùng chúng ta phải có thể liên hệ đến tất cả chúng sanh trong cách này, thấy rằng hoàn cảnh của họ luôn luôn lệ thuộc trên những điều kiện của vòng sanh tử quẩn quanh.  Trong cách này tất cả những hành động tương tác với người khác trở thành những chất xúc tác cho việc làm sâu sắc thêm lòng bi mẫn của chúng ta.  Đây là việc chúng ta giữ trái tim của chúng ta cởi mở trong đời sống hàng ngày của chúng ta như thế nào, bên ngoài những thời điểm hành thiền chánh thức.

 

Lòng bi mẫn chân thật có sự mãnh liệt và tự động của một bà mẹ thân thương quan tâm đến đứa con đau khổ của bà.  Suốt ngày, lòng quan tâm của bà mẹ cho đứa con tác động đến tất cả mọi suy tư và hành động của bà.  Đây là thái độ mà chúng ta đang làm việc để trau dồi đối với mỗi một chúng sanh.  Khi chúng ta trải nghiệm điều này, chúng ta đã phát sinh lòng "đại bi".

 

Một khi chúng ta đã trở nên bị kích động một cách sâu sắc bởi lòng đại bi và đại từ, và trái tim chúng ta đã bị lay động bởi các tư tưởng vị tha, chúng ta phải phát nguyện dâng  hiến chính mình để giải thoát tất cả chúng sanh khỏi khổ não mà họ phải chịu đựng trong sanh tử luân hồi, vòng quẩn quanh của sanh ra, chết đi và tái sanh mà tất cả chúng ta là những tù nhân.  Nỗi khổ não của chúng ta không chỉ giới hạn trong hoàn cảnh hiện tại.  Theo quan điểm của Đạo Phật, hoàn cảnh hiện tại của chúng ta như những con người là tương đối thoải mái.  Tuy nhiên, chúng ta sẽ phải trải nghiệm nhiều khó khăn hơn trong tương lai nếu chúng ta không sử dụng đúng cơ hội hiện tại này.   Bi mẫn cho phép chúng ta kềm chế khỏi suy nghĩ trong một cung cách ích kỷ.  Chúng ta trải nghiệm những niềm vui to lớn và không bao giờ đơn thuần rơi vào cực đoan của việc chỉ tìm kiếm niềm hạnh phúc và giải thoát cho riêng mình.  Chúng ta cố gắng tiếp tục phát triển và hoàn thiện đức hạnh và tuệ trí của chúng ta.  Với lòng bi mẫn như vậy, chúng ta cuối cùng sẽ sở hữu tất cả những điều kiện cần thiết cho việc đạt đến giác ngộ.  Chúng ta do thế, phải trau dồi lòng bi mẫn ngay lúc mới bắt đầu việc thực tập tâm linh của chúng ta.

 

Đến đây, chúng ta đã đối diện với những sự thực hành cho phép chúng ta kềm chế khỏi thái độ không lành mạnh.  Chúng ta đã thảo luận vấn đề tâm thức hoạt động như thế nào và vấn đề chúng ta phải hành động như thế nào đối với tâm thức cũng như chúng ta sẽ làm việc trên một đối tượng vật lý, bằng việc áp dụng những hành vi nào đó nhằm để mang đến những kết quả mong đợi.  Chúng ta nhận thức rằng tiến trình của việc khai mở trái tim chúng ta không khác biệt.  Không có phương pháp bí mật mà qua đó lòng bi mẫn và từ ái có thể xảy đến.  Chúng ta phải nhào nặn tâm thức chúng ta một cách thiện nghệ, và với sự kiên trì và nhẫn nại chúng ta sẽ thấy rằng mối quan tâm của chúng ta cho sự cát tường của người khác sẽ tăng trưởng.

 

Thursday, October 18, 2012 / 14:26:28


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2021(Xem: 4989)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5222)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8012)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6151)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 5631)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4269)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9188)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5733)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7048)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5744)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]