Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 02: Thiền Tập - Sự Khởi Đầu

08/01/201919:10(Xem: 4627)
Chương 02: Thiền Tập - Sự Khởi Đầu

CHƯƠNG 2: THIỀN TẬP -  SỰ KHỞI ĐẦU

 

 

Thursday, September 27, 2012

 

TRONG CHƯƠNG NÀY, chúng ta khám phá những kỷ năng cho việc thay đổi tâm thức từ những thói quen để những cung cách đạo đức hơn.  Có hai phương pháp của thiền tập được sử dụng trong sự thực tập của chúng ta.  Một là, thiền phân tích[1], là phương tiện mà qua đấy chúng ta tự làm quen với những ý tưởng và thái độ tinh thần mới.  Thứ kia là thiền ổn định[2], tập trung tâm thức trên một đối tượng chọn lựa.

 

Mặc dù tất cả chúng ta tự nhiên thiết tha mong mõi được hạnh phúc và ao ước vượt thắng khổ não, nhưng chúng ta tiếp tục trải nghiệm đau đớn và khổ sở.  Tại sao là như thế?  Phật Giáo dạy rằng chúng ta thật sự được kết hợp lại trong những nguyên nhân và điều kiện và chúng đã tạo nên những sự bất hạnh của chúng ta, và thường không sẳn lòng dấn thân trong những hành vi có thể đưa đến niềm hạnh phúc bền lâu.  Việc này là như thế nào?  Trong cung cách thông thường của đời sống, chúng ta tự để bị khống chế bởi những tư tưởng và cảm xúc mạnh mẽ, những thứ rồi thi cho phát sinh các tình trạng tiêu cực của tâm thức.  Chính là do vòng lẩn quẩn  này mà chúng ta  làm tồn tại mãi mãi không chỉ sự bất hạnh cho chúng ta mà cũng cho những người khác.  Chúng ta phải xây dựng một lập trường để cải đổi những khuynh hướng này và thay thế chúng với những thói quen mới.  Như một cành tươi non ghép trên một thân cây cằn cổi cuối cùng hòa nhập đời sống với cây ấy và tạo nên một cây mới, chúng ta phải nuôi dưỡng khuynh hướng ấy bằng việc trau dồi một cách cẩn trọng những sự thực tập đạo đức.  Đây là ý nghĩa và đối tượng chân thật của thiền tập.

 

Quán chiếu về bản chất khổ não của đời sống, xem xét những phương pháp nhờ đó nỗi khổ của chúng ta có thể được đưa đến chỗ chấm dứt, là một hình thức của thiền tập.  Quyển sách này là một hình thức của thiền tập.  Tiến trình mà qua đó chúng ta chuyển  hóa thái độ bản năng hơn của chúng ta đối với đời sống, thể trạng ấy của tâm thức chỉ hài lòng sự khao khát và lẫn tránh sự không thoải mái, là ý nghĩa của những gì khi chúng ta sử dụng từ ngữ thiền tập.  Chúng ta có khuynh hướng bị khống chế bởi tâm thức chúng ta, tuân theo nó cùng với lối mòn vị kỷ của nó.  Thiền tập là một tiến trình mà nhờ đó chúng ta đạt được kiểm soát đối tâm thức và hướng dẫn nó trong một phương hướng đạo đức hơn.  Thiền tập có thể được nghĩ như một kỷ năng mà nhờ đó chúng ta giảm bớt năng lực của thói quen tư tưởng cũ và phát triển những thói quen tốt đẹp mới.  Nhờ thế, chúng ta bảo vệ chính mình khỏi dấn thân trong những hành vi của tâm ý, lời nói, hay thân thể đưa đến khổ não cho chúng ta.  Thiền tập như vậy được sử dụng một cách rộng rãi trong sự thực tập tâm linh của chúng ta.

 

Kỷ năng này không ở trong và của chính Phật Giáo.  Giống  như người nhạc sĩ rèn luyện đôi tay của họ, những vận động viên với sự uyển chuyển và kỷ năng của họ, nhà ngôn ngữ học với đôi tai của họ, nhà bác học với nhận thức của họ, vì thế chúng ta hướng đến tâm thức và trái tim của chúng ta.

 

Làm quen chính mình với những khía cạnh khác nhau của việc thực hành tâm linh do thế là một hình thức của thiền tập.  Chỉ đơn giản đọc qua một lần không có lợi lạc gì nhiều.  Nếu các bạn thích thú, thật hữu ích để quán chiếu những đề tài được đề cập, như chúng tôi đã đề cập ở chương trước với hành vi không đức hạnh về nói với vô nghĩa, và rồi nghiên cứu chúng một cách bao quát hơn để mở rộng sự thấu hiểu của chúng ta.  Càng khám phá chủ đề và chinh phục nó đến sự nghiên cứu kỷ lưỡng tinh thần, chúng ta càng thấu hiểu nó một cách sâu sắc hơn.    Điều này có thể cho phép chúng ta phán xét nó một cách có cơ sở vững chắc.  Nếu qua sự phân tích chúng ta minh chứng điều gì đó là vô giá trị, thế thì chúng ta đặt nó qua một bên.  Tuy nhiên, nếu chúng ta kiến lập điều gì đó một cách độc lập là đúng đắn, thế thì niềm tin của chúng ta trong chân lý ấy là một sự kiên cố đầy năng lực.  Toàn bộ tiến trình nghiên cứu và sự quan sát kỷ lưỡng này phải được nghĩ như là một hình thức của việc hành thiền.

 

Chính Đức Phật đã nói rằng, "Này các môn đệ và những người thông tuệ, đừng chấp nhận lời nói của ta chỉ đơn giản vì sự tôn kính.  Các con phải đưa chúng ra phân tích phê bình và chấp nhận chúng trên căn bản sự thấu hiểu của các con."  Tuyên bố nổi tiếng này có nhiều ngụ ý.  Rõ ràng Đức Phật đang nói với chúng ta rằng khi chúng ta đọc một bản văn chúng ta không nên chỉ dựa vào danh tiếng của tác giả nhưng đúng hơn là căn cứ vào nội dung của tác phẩm.  Và khi nắm bắt nội dung, chúng ta nên dựa trên vấn đề chủ đề và ý nghĩa hơn thể loại văn chương.  Khi liên hệ đến chủ đề, chúng ta nên dựa trên sự thấu hiểu kinh nghiệm hơn là trên sự nắm bắt thông minh.  Nói cách khác, chúng ta phải phát triển một cách căn bản hơn là chỉ đơn thuần trên kiến thức trừu tượng không thực tế của Giáo Pháp.  Chúng ta phải hợp nhất chân lý giáo huấn của Đức Phật vào trong chiều sâu của chính con người chúng ta, vì thế chúng trở thành được phản chiếu trong đời sống chúng ta.  Bi mẫn chỉ có giá trị nhỏ bé nếu nó tiếp tục vẫn là một ý tưởng.  Nó phải trở thành thái độ của chúng ta đối với người khác, phản chiếu trong tất cả mọi tư tưởng và hành vi.  Và khái niệm khiêm tốn đơn thuần không giảm thiểu tính kiêu căng của chúng ta; nó phải trở thành thể trạng thật sự của con người cũng như sự biểu hiện.

 

 

QUEN THUỘC VỚI CHỦ ĐỀ CHỌN LỰA

 

Tạng ngữ cho thiền tập là gom, có nghĩa là "làm quen thuộc".  Khi chúng ta sử dụng thiền trên con đường tâm linh, đấy là để làm quen thuộc chính mình với một đối tượng chọn lựa.  Chủ đề này không nhất là một vật thể vật lý chẳng hạn một hình tượng của Đức Phật hay Giê-su trên thánh giá.  "Đối tượng chọn lựa" có thể là một phẩm chất chẳng hạn như kiên nhẫn, là điều chúng ta thực hiện việc trau dồi bên trong chính chúng ta bởi phương tiện thiền quán chiếu.  Nó cũng có thể là chuyển động nhịp nhàng của hơi thở, là điều chúng ta thực hiện để làm tĩnh lặng tâm tư bất ổn của chúng ta.  Và nó cũng có thể chỉ là một phẩm chất của trong sáng và hiểu biết - tâm thức của chúng ta - bản chất của việc chúng ta tìm kiếm để thấu hiểu.  Tất cả những kỷ năng này được diễn tả trong chiều sâu của trang sách kế tiếp.  Bằng những phương tiện này kiến thức chúng ta về đối tượng lựa chọn được lớn mạnh.

 

Thí dụ, khi chúng ta tìm kiếm một loại xe hơi để mua, đọc ưu và khuyết của những hảng xe khác nhau, chúng ta phát triển một cảm nhận về những phẩm chất của một sự chọn lựa đặc thù.  Bằng việc quán chiếu những phẩm chất này, sự đánh giá của chúng ta về chiếc xe này sâu sắc hơn, với mong muốn sở hữu nó.  Chúng ta có thể trau dồi những đức hạnh chẳng hạn như kiên nhẫn và bao dung trong cùng cách rất giống như thế.  Chúng ta cũng làm thế bằng việc quán chiếu những phẩm chất đã cấu thành sự kiên nhẫn, sự hòa bình của tâm thức phát sinh trong chúng ta, môi trường hòa hiệp được tạo nên như một kết quả của nó, sự tôn trọng nó đem lại trong những người khác.  Chúng ta cũng hành động để nhận ra những hạn chế của sự thiếu kiên nhẫn, sự giận dữ và thiếu bao dung chúng ta khổ sở trong ấy, sự sợ hãi và thù địch nó mang đến những người chung quanh chúng ta. Bằng việc thực hành một cách cần mẫn theo những dòng tư tưởng này, sự kiên nhẫn của chúng ta tiến bộ một cách tự động, tăng trưởng mạnh hơn và mạnh hơn, ngày qua ngày, tháng qua tháng, và năm này qua năm khác.  Tiến trình thuần hóa tâm thức là một tiến trình lâu dài.  Tuy nhiên, một khi chúng ta đã làm chủ sự kiên nhẫn, niềm hoan hỉ xuất phát từ đấy tồn tại lâu hơn bất cứ niềm vui nào có được từ chiếc xe hơi ta mua được.

 

Chúng ta thật sự dấn thân trong việc hành thiền như thế rất thường xảy ra trong đời sống hằng ngày của chúng ta.  Chúng ta đặc biệt làm lớn mạnh rất tốt một cách quen thuộc đối với những khuynh hướng bất thiện!  Khi không hài lòng với người nào đó, chúng ta có thể quán chiếu đến lỗi lầm của người đó và phát sinh một niềm tin chắc chắn về bản chất đáng nghi ngờ của người đó.  Tâm thức chúng ta tiếp tục duy trì sự tập trung trên 'đối tượng' trong việc hành thiền của chúng ta, và sự quán chiếu của chúng ta cho người đó do thế gia tăng mãnh liệt.  Chúng ta cũng quán chiếu và phát triển sự quen thuộc với những đối tượng chọn lựa  khi chúng ta tập trung trên sự việc nào đó hay người nào đó mà chúng ta yêu thích. Rất ít sự khích động cần đến để duy trì sự tập trung của chúng ta.  Thật khó khăn hơn để duy trì tập trung khi chúng ta trau dồi đạo đức.  Đây là một biểu hiện chắc chắn của vấn đề những cảm xúc của luyến ái và tham dục tràn ngập như thế nào!

 

Có nhiều loại thiền tập.  Có một số loại không đòi hỏi nghi thức hay một tư thế đặc thù nào.  Chúng ta có thể hành thiền trong khi lái xe hay đi bộ, trên xe buýt hay xe lửa, và ngay cả trong khi tắm rửa.  Nếu chúng ta nguyện ước dành một thời gian đặc thù nào đó cho việc thực thành tập trung tâm linh, thật lợi ích để áp dụng vào buổi sáng sớm cho một buổi hành thiền nghi thức, thời gian mà tâm thức tỉnh táo và trong sáng nhất.  Thật lợi ích để ngồi trong một môi trường tĩnh lặng với lưng thẳng, vì nó giúp chúng ta duy trì sự tập trung.  Tuy nhiên, thật quan trọng để nhớ rằng chúng chúng ta phải trau dồi những thói quen đạo đức tinh thần bất cứ khi nào và bất cứ nơi nào có thể.  Không thể giới hạn việc hành thiền trong những buổi thiền nghi thức.

 

 

THIỀN PHÂN TÍCH

 

Như tôi đã nói, có hai loại thiền tập được sử dụng trong quán chiếu và tiếp thu những chủ đề tôi thảo luận trong quyển sách này.  Thứ nhất, có thiền phân tích.  Trong hình thức thiền này, việc làm quen với một đối tượng chọn lựa - thí dụ như chiếc xe ta mong muốn hay lòng từ bi hay kiên nhẫn chúng ta mong cầu phát sinh - được trau dồi qua tiến trình phân tích dựa trên lý trí.  Ở đây, chúng ta không chỉ tập trung trên một chủ đề.  Đúng hơn, chúng ta đang trau dồi một cảm nhận gần gũi hay thấu cảm với chủ đề chọn lựa bằng việc áp dụng một cách cần mẫn khả năng quả quyết của chúng ta.  Đây là hình thức của thiền quán tôi sẽ nhấn mạnh khi chúng ta khám phá những chủ đề khác nhau và cần được trau dồi trong sự thực tập tâm linh.  Một số chủ đề này là đặc biệt đối với một sự thực tập của Phật tử, một số thì không.  Tuy nhiên, một khi chúng ta đã phát triển sự quen thuộc với một chủ đề bằng phương tiện của sự phân tích như vậy, thật quan trọng để sau đó duy trì tập trung trên nó bằng phương tiện thiền ổn định nhằm để giúp nó thâm nhập một cách sâu sắc hơn.

 

 

THIỀN ỔN ĐỊNH

 

Loại thứ hai là thiền ổn định.  Việc này xảy ra khi chúng ta an trụ tâm thức trên một đối tượng chọn  lựa mà không tiến hành phân tích hay suy tư.  Khi hành thiền trên bi mẫn, thí dụ thế, chúng ta ta phát triển sự thấu cảm cho người khác và hoạt động trong việc nhận ra nổi khổ não mà họ trải nghiệm.  Điều này chúng ta thực hiện bằng phương tiện của thiền phân tích.  Tuy nhiên, một khi chúng ta có một cảm nhận bi mẫn trong trái tim của chúng ta, một khi chúng ta thấy rằng thiền tập đã thay đổi một cách tích cực thái độ của chúng ta đối với người khác, chúng ta an trụ trên cảm nhận ấy, mà không đi vào suy tư.  Điều này giúp làm sâu sắc hơn sự bi mẫn của chúng ta.  Khi chúng ta cảm thấy rằng cảm nhận bi mẫn của chúng ta bị yếu đi, chúng ta có thể tiến hành lại trong thiền phân tích để đem lại sức sống cho sự thông cảm và quan tâm trước khi trở lại thiền ổn định. 

 

Khi chúng ta trở nên thuần thục hơn, chúng ta có thể khéo léo hoán chuyển giữa hai loại thiền tập nhằm để tẳng cường phẩm chất mong muốn.  Trong Chương 11, "Nhất Tâm Bất Loạn", chúng tôi sẽ thẩm tra kỷ năng của việc phát triển thiền ổn định đến điểm mà chúng ta có thể duy trì tập trung nhất niệm trên chủ đề thiền tập bao lâu tùy chúng ta muốn.  Như tôi đã nói, "chủ đề thiền tập" này không nhất thiết là điều gì đấy chúng ta có thể "thấy".  Trong một ý nghĩa, chúng ta hợp nhất tâm thức với chủ đề nhằm để trau dồi một sự quen thuộc với nó.  Thiền ổn định, giống như những hình thức khác của thiền tập, không phải vốn là đạo đức trong bản chất.  Đúng hơn, nó là đối tượng chúng ta tập trung và động cơ thúc đẩy điều mà chúng ta tiến hành trong sự thực tập quyết định phẩm chất tâm linh trong sự thiền tập của chúng ta.  Nếu tâm thức chúng ta tập trung vào lòng bi mẫn, việc hành thiền là đạo đức.  Nếu nó được đặt vào sự giận dữ, thì nó không phải đạo đức.

 

Chúng ta phải hành thiền trong luồng thái độ, việc trau dồi sự quen thuộc với một đối tượng được chọn lựa dần dần.  Việc học hỏi và lắng nghe với một vị thầy phẩm hạnh là một bộ phận quan của tiến trình này.  Sau đó chúng ta quán chiếu những gì chúng ta đã  đọc hay nghe, nghiên cứu cẩn thận nó để loại trừ bất cứ sự rối rắm, nhận thức sai lầm, hay nghi ngờ nào chúng ta có thể có.  Tiến trình này tự nó giúp tác động tâm thức.  Rồi thì, khi chúng ta tập trung trên đối tượng của chúng ta một cách nhất  niệm, tâm thức chúng ta trở nên hợp nhất với nó trong một thái độ mong muốn.

 

Thật quan trọng là trước khi chúng ta hành thiền trên những khía cạnh vi tế hơn của triết lý Phật Giáo, chúng ta có thể giữ tâm thức chúng ta tập trung trên những chủ đề đơn giản hơn.  Việc này giúp chúng ta phát triên khả năng phân tích và duy trì tập trung nhất niệm trên những chủ đề vi tế chẳng hạn như sự đối trị đối với tất cả những sự khổ não của chúng ta, đấy là tánh không của sự tồn tại cố  hữu (vô tự tánh).

 

Hành trình tâm linh của chúng ta là một hành trình dài.  Chúng ta phải lựa chọn con đường chúng ta một cách cẩn trọng, bảo đảm rằng nó bao hàm tất cả những phương pháp đưa chúng ta đến mục tiêu mong ước.  Có những lúc hành trình là gian khó.  Chúng ta phải biết điều chỉnh tốc độ chậm như sên trong việc quán chiếu sâu sắc trong khi cũng bảo đảm rằng chúng ta không quên những vấn nạn của hàng xóm chúng ta hay những con cá bơi lội trong những đại dương ô nhiễm hàng nghìn dặm xa nơi nào ấy.

 

Saturday, October 13, 2012 / 20:01:41


 




[1]Thiền phân tích: quán, thiền quán, tuệ minh sát, liễu biệt thiền.

[2]Thiền ổn định: chỉ, thiền định, thiền tập trung, tam muội thiền.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2021(Xem: 4989)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5222)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8012)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6151)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 5632)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4269)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9188)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 5734)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
01/02/2021(Xem: 7048)
Phần này bàn về các danh từ gọi dụng cụ gắp cơm và đưa vào miệng (ăn cơm) như đũa hay trợ, khoái, giáp cùng các dạng âm cổ của chúng. Các chữ viết tắt khác là Nguyễn Cung Thông (NCT), Hán Việt (HV), Việt Nam (VN), TQ (Trung Quốc), ĐNA (Đông Nam Á), HT (hài thanh), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), VBL (tự điển Việt Bồ La/1651) ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/1895).
29/01/2021(Xem: 5744)
Ở đời không phải ai cũng chấp nhận sự chân thành của bạn. Những người quanh ta luôn công nhận việc tốt mà ta đã và đang làm, trở thành đương nhiên như thế… và đến một ngày kia bạn quá mệt mỏi liệu có ai bên cạnh bạn và cảm thông với bạn không? Vì trong suy nghĩ của họ bạn là người tự nguyện cho đi..., trong hoàn cảnh như thế liệu bạn có tiếp tục cho đi nữa hay không? Tất nhiên là có, chúng ta hãy tiếp tục sống tốt nhưng phải là người tốt thông minh. Hãy tin rằng không có nỗ lực nào là uổng phí, hãy có quan điểm và lý tưởng của chính mình, luật nhân quả luôn đền bù cho bạn xứng đáng. Nhà Phật dạy có Luân Hồi-Ngiệp Báo. Không ai phủ nhận rằng quan tâm chăm sóc người khác là tốt, nhường nhịn người khác đều là tốt, tuy nhiên quan tâm quá, họ sẽ làm khó ta vạn lần, nhiệt tình quá họ sẽ đâm ra nghi ngờ, thậm chí khiến bạn bị tổn thương …
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]