Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật giáo và Thế giới tâm linh

03/04/201709:31(Xem: 7964)
Phật giáo và Thế giới tâm linh



Phat Di Da 2

Phật giáo và Thế giới tâm linh



Phật giáo không gặp nhiều khó khăn khi phải chấp nhận sự tin tưởng của quần chúng địa phương về thần thánh, ma quỉ hay các vấn đề tâm linh khác. Thần thánh hay ma quỉ cũng chịu sự chi phối của luật nghiệp báo và các luật khác trong thiên nhiên. Thế giới của Phật gíáo đủ rộng để bao gồm các chúng sanh nầy. Phật giáo có thể chấp nhận một số cách thờ phượng, một số không thích hợp và bị loại bỏ, một số có thể được tiếp thu và hòa nhập phần nào trong tổng thể Phật giáo. Những tin tưởng và thờ phượng nầy có thể đóng vai trò quan trọng trong nếp sống của dân địa phương, nhứt là tại các xứ Á châu.

 

Đã có nhiều luận bàn trong giới học giả về sự liên hệ chính xác giữa Phật giáo với các đức tin dân gian. Một số học giả chấp nhận một tổng thể tâm linh có cấp bực, trong đó đức Phật là đỉnh cao. Một số chia ra "truyền thống chánh" và "truyền thống phụ thuộc". Tính cách phàm tục của các truyền thống dân gian có thể đối chọi với truyền thống cao thượng và thiêng liêng của Phật pháp. Một số quan sát viên phương Tây, sau đó là các học giả Phật giáo tân thời, cho là sự hiện hữu của các hình thức tâm linh dân gian trong Phật giáo là sự thoái hóa của giáo pháp tinh túy nguyên thủy. Nhưng thật ra, Phật giáo không mấy quan tâm về vấn đề nầy. Phật giáo không phủ nhận các hình thức đó, và chỉ xem đó là những khía cạnh khác của hoạt động tâm linh nhơn loại. Nếu chúng không trực tiếp đối đầu với Phật pháp, chúng ta có thể để cho chúng tự điều chỉnh lấy. Không có sự mâu thuẫn giữa đức tin nhơn quả và sự cúng dường thần thánh để mong cầu hiệu quả như ý. Cũng như không có khác biệt giữa sự yêu cầu giúp đỡ từ vị quốc vương và sự giúp đỡ từ vị bác sĩ. Sự giúp đỡ tâm linh là bộ phận của các liên hệ phức tạp bị chi phối bởi nhiều điều kiện và nhân tố khác nhau. Sự giúp đỡ của thần thánh có thể là thật hay không thật. Nếu là không thật thì ta cần bác bỏ. Sự tương phản giữa các đức tin dân gian và khuynh hướng giảm thiểu hay bác bỏ chúng - chỉ là vấn đề trên bề mặt. Những người theo khoa học Tây phương thường có khuynh hướng chối bỏ sự hiện hữu của các thực thể tâm linh (thần thánh, ma quỉ, v.v...).Phật giáo trái lại tin có các thực thể tâm linh ở nhiều mức độ hiện hữu khác nhau. Trong thực tế, Phật tử theo khuynh hướng cổ truyền đã và đang tham dự phần nào trong các hoạt động thờ phượng ở các địa phương.

 

Phật giáo không chối bỏ sự hiện hữu của thần thánh và ma quỉ. Có những chúng sanh hữu hình và vô hình, cũng như có loại ánh sáng thấy được và loại ánh sáng không thấy được. Chúng ta cần có dụng cụ đặc biệt để thấy được ánh sáng vô hình, cũng như chúng ta cần có giác quan đặc biệt để thấy được các chúng sanh vô hình. Chúng ta không thể chối bỏ sự hiện hữu của họ, chỉ vì không thấy được họ. Những chúng sanh nầy cũng bị sanh tử

chi phối. Họ không ở mãi trong dạng tâm linh. Họ cũng hiện hữu trong thế giới chúng ta đang sống, chỉ có điều chúng ta không thấy được họ. Phật tử là người hướng đời mình theo luật nhơn quả mà đức Phật đã khám phá, nên chúng ta không cần lo âu về sự thờ cúng thần thánh và âm linh. Tuy nhiên, các lối thờ cúng nầy rất phổ thông và được quần chúng quan tâm, nên một số Phật tử đương nhiên có tiếp xúc với những hoạt động đó.

 

Tâm thiện lành là màng chắn bảo vệ chúng ta khỏi sự tà ác. Sự tà ác không thể xâm nhập, trừ phi người  thiện  mở cửa cho chúng vào. Tuy nhiên, người thiện mặc dầu có nếp sống trong sạch và đạo đức, cũng có thể bị nguy hiểm nếu họ tin là năng lực của những âm linh tà ác có thể làm hại họ. Đức Phật không bao giờ dạy chúng ta phải thờ phượng hay sợ hãi họ. Thái độ đúng đắn của Phật tử là hồi hướng công đức và ban rải lòng từ bi đến những âm linh nầy. Chúng ta không làm hại họ và chỉ cầu mong sự tốt lành cho họ, thì không lí nào họ lại nổi giận và muốn làm hại chúng ta. Mặt khác, nếu nhà đạo trong sạch và đạo đức, lại có ý chí mạnh mẽ và sự minh triết - thì người đó được xem là mạnh hơn nhiều so với các âm linh trung bình. Thông thường, các ác linh phải lánh xa, bởi vì chư thần hộ pháp luôn luôn che chở và bảo vệ người tu hành chơn chánh.

 

(“Spirit World”, ‘Seeker’s Glossary of Buddhism’, p. 433-434, Thích Phước Thiệt dịch)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/01/2021(Xem: 6394)
Chúng ta đã quen với thể loại thơ Thiền sáng tác nhiều thế kỷ trước từ các ngài Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ, Hương Hải… Hay gần đây như với thơ của các ngài Nhất Hạnh, Mãn Giác, Tuệ Sỹ, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Ni Trưởng Trí Hải… Đó là nói cho chặt chẽ. Nếu nói cho nới rộng hơn, thơ Thiền cũng là Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Trịnh Công Sơn… Mỗi thời đại đều có những nét riêng, mỗi tác giả cũng là một thế giới độc đáo. Mặt khác, thơ Thiền mỗi quốc độ cũng khác. Trong khi phần lớn thơ Thiền Nhật Bản cô đọng với thể haiku, thơ Thiền Trung Hoa có nhiều bài hùng mạnh như tiếng sư tử hống, như với Chứng Đạo Ca của ngài Huyền Giác, hay Tín Tâm Minh của ngài Tăng Xán. Không ngộ được tự tâm, sẽ không có văn phong đầy sức mạnh như thế. Nơi đây, chúng ta nêu câu hỏi: Làn gió Thiền Tông đã ảnh hưởng vào thơ Hoa Kỳ ra sao? Và sẽ giới thiệu về bốn nhà thơ.
28/01/2021(Xem: 6419)
Mọi người đều biết câu chuyện Xá Lợi Phất thăm Cấp Cô Độc khi bị bịnh nặng và giảng cho Cấp Cô Độc bài pháp về quán chiếu, khi thiền trong Tứ Niệm Xứ mà chữa bịnh cho Cấp Cô Độc. Quán về Phật pháp tăng, 18 giới gồm 6 căn 6 trần 6 thức, rồi quán về 7 đại: đất nước gió lửa không kiến thức, quán về thời gian không gian và cuối cùng là quán về 5 uẩn. Cấp Cô Độc nghe xong hết bịnh. Cũng câu chuyện như vậy, nhưng nó khác đi chi tiết là lúc về già sắp mất: Xá Lợi Phất khai thị Cấp Cô Độc chú trọng về 5 uẩn, hãy trả 5 uẩn về lại cho 5 uẩn khi duyên hội tụ đã hết. Hãy trả Pháp về lại cho Pháp. Và Cấp Cô Độc chết thành A la hán vì đã ngộ được đạo về cõi trời.
28/01/2021(Xem: 5571)
Chùa Thiếu Lâm Tự mở ra khóa ngồi thiền cho 18 vị tu thành A la Hán. Khoá tu này trong 30 ngày ngồi trong tịnh thất suốt ngày đêm. Vị chủ trì là Hòa thượng trụ trì của Thiếu Lâm Tự. Thời bấy giờ là mùa xuân, cảnh đẹp hoa nở và thời tiết ấm áp. Mọi thiền sinh miệt mài tập trung thiền định đạt được 30 ngày miên mật thì bỗng xảy ra tiếng nói vọng vào từ ngoài cửa. Giọng nói đầy êm dịu thanh thoát và trong trẻo của một cô gái. Mỗi tiếng phát âm đi sâu vào tim người nghe một cảm giác êm dịu nhẹ nhàng như vuốt ve trái tim của con người.
27/01/2021(Xem: 3902)
Kính thưa quý đọc giả, tôi đột nhiên thấy được quyển sách với nhan đề “Khéo Dùng Cái Tâm” do Hội Phật Học Bát Nhã biên soạn, liền mượn về ngay để nghiên cứu. Tôi sở dĩ nghiên cứu tác phẩm này là do chủ đề “Khéo Dùng Cái Tâm” lôi cuốn tư tưởng của tôi. Chủ đề rất hấp dẫn khiến tôi tò mò không biết nội dung trong đó nói gì đành phải bỏ hết thời gian để đọc cho xong. Toàn bộ quyển sách chỉ nói về Ma Nhập, nhưng quý đọc giả cần phải đọc qua để biết Ma Nhập quan hệ như thế nào đối với con người chúng ta, đồng thời cần phải tỏ tường để tránh né và đối trị.
27/01/2021(Xem: 3993)
Đức Phật ngồi thiền 49 ngày dưới cội Bồ Đề mới ngộ được đạo tìm được đường giải thoát cho chúng sinh khỏi sinh tử luân hồi. Từ đó đến nay trên 2000 năm biết bao nhiêu cách tọa thiền, đi thiền, nằm thiền, trà thiền, tất cả quá nhiều phương pháp đường lối. Từ Nguyên thủy đến Đại thừa, có rất nhiều đường lối thiền.
27/01/2021(Xem: 4762)
Khi Đức Phật cố gắng ra được bìa rừng với thân đói rét gầy xương do tu khổ hạnh lâu ngày. Ngài kiệt sức và được cô bé chăn bò Cát Tường cho uống bát sữa, Người mới bảo cùng 5 anh em Kiều Trần Như rằng tu khổ hạnh diệt thân này là sai lầm không thể đạt được giác ngộ. 5 anh em Kiều Trần Như có người chế nhạo Đức Phật là con vua hoàng tử sống sung sướng nên không chịu nổi tu khổ hạnh. Riêng người anh cả bảo không phải vậy. Đức Phật chia tay với 5 anh em Kiều Trần Như và hẹn khi nào đạt được giác ngộ sẽ giảng ưu tiên cho 5 anh em.
25/01/2021(Xem: 4771)
Phật Giáo có mặt ở Mỹ vào giữa thế kỷ thứ 19, qua giới trí thức văn nghệ sĩ và các di dân từ Trung Hoa và Nhật Bản. Nhưng phải đợi đến đầu thế kỷ 20, khi học giả và thiền sư người Nhật Daisetsu Teitaro Suzuki viết sách bằng tiếng Anh truyền bá Thiền Tông tại Mỹ thì mới làm cho Thiền Phật Giáo thành món ăn tinh thần đặc biệt và hấp dẫn không những với người Mỹ mà còn với cả thế giới Tây Phương.
25/01/2021(Xem: 5136)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâm và tranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết. Có lẽ một phần là do sự văn minh tiến bộ của xã hội đã giúp mở rộng nhận thức và tâm thức con người đối với những vấn đề xã hội như thế. Trong đó không thể không nói đến nhiều đóng góp của các phong trào dân quyền, nhân quyền, bình quyền, nữ quyền, v.v… trên thế giới từ vài thế kỷ qua đã xây dựng những nền tảng về lý thuyết và thực hành cho công cuộc đấu tranh đòi quyền sống và bình đẳng cho từng cá nhân trong cộng đồng xã hội.
22/01/2021(Xem: 5285)
Ngày 11 tháng 11 năm 2020 là sinh nhật thứ 199 năm của nhà văn và triết gia người Nga Fyodor Dostoevsky [sinh ngày 11 tháng 11 năm 1821]. Các tác phẩm văn học của ông đã khám phá tâm lý con người trong bầu không khí chính trị, xã hội và tâm linh bất an của xã hội Nga vào thế kỷ thứ 19, và liên hệ tới nhiều chủ đề triết học và tôn giáo, theo www.en.wikipedia.org
22/01/2021(Xem: 6565)
Emily Elizabeth Dickison là nhà thơ lớn của Mỹ trong thế kỷ thứ 19. Bà sống phần lớn cuộc đời trong cô độc. Bà chưa bao giờ lập gia đình. Bà có sở thích mặc đồ trắng và rất hiếm khi tiếp khách, thậm chí bà còn không muốn ra khỏi giường ngủ. Bà đã để lại một di sản văn học đồ sộ với khoảng 1,800 bài thơ. Bà có ảnh hưởng rất lớn đối với nền văn học Mỹ và được xem là nhà thơ tiền hiện đại tiên phong, theo www.en.wikipedia.org.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]