Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nghệ thuật và con đường hoằng pháp

27/03/201718:18(Xem: 7475)
Nghệ thuật và con đường hoằng pháp


lotus_6
NGHỆ THUẬT VÀ CON ĐƯỜNG HOẰNG PHÁP
(Pháp thoại của Hoà Thượng Thích Thái Hoà tại Phật Quang Sơn, Manila, Philippines)

 

Hôm nay là ngày 25/2/2017, tại Chùa Vạn Niên, Phật Quang Sơn, thủ đô Manila, Philippines.

Chúng tôi xin chào quý Ni sư và các bạn trẻ.

Tất cả quý vị quý mến, chúng tôi đã từng đến Phật Quang Sơn tại Đài Loan, Phật Quang Sơn tại Hoa Kỳ, Phật Quang Sơn tại Úc Châu, Phật Quang Sơn tại Cebu và nay lại đến Phật Quang Sơn tại Manila, Philippines. Chúng tôi đã được quý vị đón tiếp rất niềm nỡ với vũ khúc Welcome to Fo Guang Shan. Chúng tôi được biết, con đường hoằng pháp của Phật Quang Sơn tại Manila là giáo dục và nghệ thuật. Nhân đây, chúng tôi xin chia sẻ đến quý vị một vài điều về nghệ thuật như sau:

 

1/ Nghệ thuật chính là cuộc sống

Trong đời sống của mỗi chúng ta, tất cả đều là nghệ thuật. Mỹ thuật là mọi nghệ thuật hướng đến. Mỹ thuật có khả năng làm cho con người từ thân thể xấu trở thành thân thể đẹp; từ một cách nhìn xấu chuyển sang một cách nhìn mỹ thuật, nghệ thuật; từ một góc nhìn chuyển sang nhiều góc nhìn, từ một cách nhìn phiến diện đưa tới một cách nhìn toàn diện, và khám phá ra nhiều góc cạnh khác nhau của một vấn đề, của một sự hiện hữu. Qua sự giáo dục này khiến con người mở rộng được sự hiểu biết và có khả năng chấp nhận những dị biệt tín ngưỡng, văn hoá, phong tục tập quán vùng miền và cùng nhau đưa tới một điểm chung, là chân thiện và chân mỹ.

 

2/ Ứng dụng nghệ thuật vào trong đời sống

Tại phòng trưng bày nghệ thuật của Phật Quang Sơn, chúng tôi thấy rằng, mỗi bình trà là mỗi thế giới của nghệ thuật và mỗi tách trà cũng vậy và nghệ thuật hơn là những lá trà liên kết lại với nhau để tạo thành hình tượng Bồ Tát Quán Thế Âm chứa đựng đầy đủ các phẩm tính của Trí tuệ và Từ Bi của một vị Bồ Tát. Không phải bình trà, chén trà và trà là biểu hiện những nghệ thuật mà cách chế trà, uống trà và thưởng thức trà lại là một nghệ thuật trên cả nghệ thuật. 

Uống trà để tâm được yên lắng và tiếp xúc được với thực tại chính nó lại là một nghệ thuật của thiền tập và là thiền tập ngay khi uống trà: " tách trà trong đôi tay, chánh niệm nâng tròn đầy, thân và tâm an trú, ngay trong phút giây này".

Ấy là bài thi kệ giúp chúng ta khám phá nghệ thuật của cuộc sống qua sự uống trà. Nên uống trà không còn là uống trà đơn thuần, mà uống trà trở thành là nghệ thuật của đời sống. Khi uống trà vượt khỏi mọi không gian và thời gian thì uống trà không còn là nghệ thuật mà uống trà trở thành trà đạo. Đạo thì không còn là nghệ thuật mà là chân thật. Đạo chính là cuộc sống cao đẹp và chúng ta cần đem sự cao đẹp đó mà sống và đối xử với nhau hằng ngày.

 

3/ Nghệ thuật tự thân

Mỗi con người chúng ta đều là tự thân của nghệ thuật. Đi, đứng, nằm, ngồi tất cả đều là tự thân của nghệ thuật. Và mỗi người đều có nghệ thuật riêng của chính mình, cho nên biểu hiện nghệ thuật thì không ai giống ai, vì sao? Vì tâm ý của mỗi người khác nhau nên sự biểu hiện nghệ thuật cũng khác nhau. Tất cả chúng ta đều đi, nhưng không có cái đi của ai giống ai; tất cả chúng ta đều ngồi nhưng không có cái ngồi nào giống cái ngồi nào; tất cả chúng ta đều đứng nhưng không có cái đứng nào giống cái đứng nào; tất cả chúng ta đều nằm nhưng không có cái nằm nào giống cái nằm nào. Do đó, cuộc sống con người là đa dạng, nên nghệ thuật do họ biểu hiện cũng đa dạng. Tuy nhiên, Phật giáo giáo dục nghệ thuật là dạy cho con người đi những bước đi ở trong chánh niệm để ngay nơi bước đi ấy chế tác ra sự an lạc cho chính họ. Giáo dục nghệ thuật Phật giáo là dạy cho người ta biết ngồi ở trong tư thế hoa sen hay kiết già và theo dõi hơi thở tạo ra sự bất động của thân và tâm đưa đến sự an lạc trong lúc ngồi. Phật giáo giáo dục nghệ thuật đứng một cách vững chãi, mười ngón chân của hai bàn chân chạm sát xuống đất và đứng vững chãi trên mặt đất là biểu hiện cho nghệ thuật, tự mình đứng dậy giữa cõi đời sinh tử và bất động giữa khen chê của cuộc đời. Phật giáo giáo dục nghệ thuật nằm trong tư thế sư tử, nghĩa là nằm nghiêng về phía bên phải, tay trái duỗi thẳng trên mình, năm ngón tay khép lại sát nhau, tay phải đặt dưới đầu là biểu hiện cho tư thế nằm nghệ thuật cát tường. Với nghệ thuật nằm này, khiến tim của chúng ta không bị chèn ép bởi thế nằm của chúng ta và làm cho máu lưu thông khiến chúng ta có một giấc ngủ an lành. Ấy là giáo dục nghệ thuật đi, đứng, nằm, ngồi ở trong Phật giáo mà thuật ngữ chuyên môn của Phật học gọi là biểu hiện oai nghi của một người biết tu tập.

 

4/ Nghệ thuật đồng nhất

Nhìn thấy muôn vật là một nghệ thuật nhưng nếu chúng ta nhìn muôn vật với trí tuệ và tâm từ bi thì ta sẽ khám phá ra mọi sự hiện hữu đều là mầu nhiệm. vì sao? Vì cái này hiện hữu là giúp cho cái kia hiện hữu, và cái kia hiện hữu là giúp cho cái này hiện hữu; cái này đang hiện hữu ở trong cái kia và cái kia hiện hữu ở trong cái này. Năm ngón tay đang có mặt ở trong một bàn tay và bàn tay có mặt để cho năm ngón tay hiện hữu. Với nghệ thuật nhìn này ta có thể khám phá ra mọi vật hiện hữu ở trong toàn thể vũ trụ cũng đều như vậy. Với cách nghe, cách ngửi, cách nếm, cách tiếp xúc muôn vật qua thân thể và tâm ý chúng ta cũng sử dụng trí tuệ và từ bi để nhìn thấy rõ hết thảy chúng đều như chính nó.

 

5/ Nghệ thuật chấp tay

Chúng ta chấp tay chào nhau là cả một nghệ thuật. Năm ngón tay trong bàn tay của mỗi chúng ta là biểu hiện cho đất, nước, gió, lửa và không. 

Năm ngón tay trái của người đàn ông là biểu hiện cho đất, nước, gió, lửa và không thuộc về tính Dương hay là tính Động; 

năm ngón tay phải của người đàn ông là biểu hiện cho đất, nước,gió, lửa và không thuộc về tính Âm hay là thuộc tính Tĩnh.

Và năm ngón tay trái của người nữ là biểu hiện của đất, nước, gió, lửa và không thuộc về tính Âm hay là tính Tĩnh, và năm ngón tay phải của người nữ là biểu hiện của đất, nước, gió, lửa và không thuộc về tính Dương hay là tính Động. Nên mỗi khi chúng ta chấp tay là ta đưa Dương đi về với Âm và Âm đi đến với Dương tạo thành âm dương nhất thể. Do âm dương nhất thể cho nên nó toả ra vô lượng ánh sáng, tạo thành sinh mệnh vô tận và tạo nên sự bất động giữa tính động và tĩnh của âm và dương, và tạo thành bất diệt giữa các pháp sinh diệt của thế gian. Tính bất động hay tính không sinh diệt là tính rỗng lặng ở nơi mười ngón tay hợp nhất. Nên chấp tay chào nhau là biểu hiện cho một đoá hoa sen thanh khiết từ ba nghiệp thanh tịnh để hiến tặng cho nhau, cho nên người biết tu tập là tạo nên bông hoa thanh khiết cho chính mình giữa cõi đời ô trược. Nên con người là tinh hoa của đất trời và vũ trụ. Nên con người hiện hữu là một nghệ thuật của tình yêu mang đầy hai chất liệu trí tuệ và từ bi. Trí tuệ là biểu hiện cho tính Tĩnh và Từ bi là biểu hiện cho tính Động. Trí tuệ và Từ bi là bất nhị khi chúng ta chấp hai bàn tay lại để chào nhau.

Kính mong các bạn học tập để thành công.

 

 

Tỳ kheo Thich Vân Pháp kính ghi

Đệ tử Nguyên Dung chuyển ngữ




lotus_7

Art and the Road of Proclaiming Buddha’s Truth

(Dharma Talk of  Most Venerable Thich Thai Hoa at Fo Guang Shan, Manila – the Philippines)


Today is February 25, 2017, at Van Nien temple, Fo Guang Shan, Manila capital, the Phillippines.

I would like to send my warm greetings to the nuns and young Buddhists.

Dear brothers and sisters in the dharma,

We have visited Fo Guang Shan in Taiwan, in the US, in Australia, in Cebu, and now in Manila, the Philippines. We were welcomed warmly by all of you through the dance Welcome to Fo Guang Shan. We were told that the road of proclaiming Buddha’s truth of Fo Guang Shan is education and art. On this occasion, I would like to share with some ideas related to art, as follows:

1. Art itself is life

In our daily life, everything is art. Fine arts is the target of all artistic tendencies. Fine arts is able to change a person whose body is ill-looking into a person whose body is good-looking; a person whose look is ordinary into a person whose look is artistic; a person who possesses only one angle of viewing into a person who has several angles of viewing; a person whose view is narrow into a person whose view is broad, exploring many various angles of a matter or a reality. By this way of education, people’s understanding is broadened and they are able to accept differences in religious beliefs, cultures, regional customs, and they can travel towards a common destination: the good and the beautiful.

2. Applying art into life

At the exhibition hall of Fo Guang Shan, we found that, each of tea pots is a world of art, and so is each of tea cup; more artistically, leaves of tea are linked together to form an image of Avalokitesvara Bodhisattva that contains sufficient substances of wisdom and compassion of a bodhisattva. Not only tea pots, tea cups and tea itself are manifestations of art, but the way of making tea, drinking tea and enjoying tea is an art that is beyond every art.

Drinking tea so as to make our mind peaceful and contact reality itself is an art of practicing meditation, and it is meditation practice while drinking tea:

A cup of tea’s in my hands

with mindfulness I have obtained

both body and mind is then present

in here at this very moment.

That is the poem that helps us explore at of life through drinking tea. Therefore, drinking tea is not drinking tea in its literal meaning, but it is an art of life. And when drinking tea goes beyond and space and time, it is no more an art, but it becomes a bodhi path. A bodhi path is no more an art but a truth. A bodhi path is a noble life and we need to bring that noble life into our daily activities and behaviours.

3. Personal art

Each of us is an indication of art. Walking, standing, lying, and sitting all convey personal performance of art. Each of us has personal artistic style, therefore artists are different in their performances, why? Because their mind and thought are different and their artistic manifestations are different too. We all walk, but our walking postures are different; we all sit, but our sitting postures are different, we all stand, but our standing postures are different. We all lie, but our lying postures are different. Therefore, life of humans is diverse, and their artistic performance is diverse too. However, Buddhist education is guiding humans to walk in mindfulness so that in each of their steps they can create peace and happiness. Buddhist artistic education is to teach people how to sit in a posture of a lotus with legs crossed and soles upward, and control breaths so as to create the unmoved posture of body and mind that leads to peace and happiness while sitting. Buddhist artistic education is to teach people how to stand firmly with ten toes touching ground and firm standing on ground indicates an art of stable standing in a stream of life and death, staying unmoved in front of praises and criticisms of life. Buddhist artistic education is to teach people how to lie in the posture of a lion, i.e., lying on the rightward side with the left hand straight along the body and the fingers staying closely together, and with the right hand holding the back of the head. This is a lying posture that indicates auspicious art. With this lying posture, our heart is physically comfortable and our blood can travel easily, leading to a nice sleep. That is education of art related to walking, standing, lying and sitting in Buddhism, which is termed manifestation of demeanors by a genuine Buddhist practitioner.

4. Uniform Art

Seeing everything is an art but if we see everything with wisdom and compassion we will find that every existence is miraculous, why? Since this thing that exists will assist that thing to exist, and that thing that exists will assist this thing to exist; this thing exists in the existence of that thing and that thing exists in the existence of this thing. Five fingers exist on a hand and a hand exists for the existence of the five fingers. With this way of viewing things in mind, we are able to explore everything, which is existent in this universe in the same manner. Our way of hearing, smelling, tasting, contacting everything through our body as well as our mind and thought in the light of wisdom and compassion enables us to see all things as they really are.

5. Art of joining hands

Joining hands to greet each other is an art. Five fingers on a hand signify earth, water, wind, fire, and void.

Five fingers of a man’s left hand signify earth, water, wind, fire, and void, which belong to positive or dynamic nature; five fingers of a man’s right hand signify earth, water, wind, fire, and void, which belong to negative or static nature. And five fingers of a woman’s left hand signify earth, water, wind, fire, and void, which belong to negative or static nature; five fingers of a woman’s right hand signify earth, water, wind, fire, and void, which belong to positive or dynamic nature. Therefore, when we join hands we bring positive closer to negative, forming a uniformity of positive and negative. The uniformity of positive and negative creates infinite lights, boundless births, and unmoving state between the dynamic and static manner of positivity and negativity, creating immortality among the dharma of appearance and disappearance in life. Immortality or manner of neither appearance nor disappearance is the manner or void found in the uniformity of the ten fingers. So, joining hands together is the indication of a lotus that is pure and clean from the purity of three karmas so that we can offer it to one another. A genuine practitioner knows how to practice dharma so as to create a lotus for herself or himself in this troubled world. Therefore, humans are  quintessence of the earth and the universe. The existence of humans beings is an art of love that is full of substances of wisdom and compassion. Wisdom indicates static and Compassion symbolizes dynamic. Wisdom and Compassion is non-dual when we join hands to bow to each other.

I wish you every success in your study.

 

Transcribed by Thich Van Phap

Translated by Nguyen Dung

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2021(Xem: 4720)
Lời tựa Những lời Phật dạy phần lớn mang tính phương tiện. Nếu ta chấp chặt từng chữ, từng lời sẽ khó hiểu được hết ý nghĩa thâm sâu bên trong. Chúng ta - những người học Phật ngày nay - rất cần nhận biết đâu là phương tiện, đâu là chân lý trong những lời Phật dạy để không rơi vào cực đoan và thiên kiến. Ngoài ra, người học Phật cũng cần chú tâm vào thực hành để tự mình thực chứng, để tự tìm ra cách đi phù hợp cho riêng mình.
26/05/2021(Xem: 5027)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4515)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3747)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7560)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4746)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6177)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5325)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12157)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5358)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]