Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tứ Diệu Đế

06/02/201722:23(Xem: 7585)
Tứ Diệu Đế

Tứ Diệu Đế

 tu-dieu-de

GS Nguyễn Vĩnh Thượng

 

Lời tác giả: Việc biên soạn chắc chắn không tránh khỏi những chỗ sai sót, chúng tôi ước mong các bậc cao minh lượng thứ và sẽ phủ chính cho những sai lầm. Những sự sửa sai và bổ khuyết của quý vị độc giả để bài viết này được đầy đủ và hoàn hảo hơn trong lần viết lại; đó quả là niềm vinh hạnh cho chúng tôi.
NVT

 

Bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca đặt trọng tâm là "Tứ Diệu Đế" / Bốn Sự Thật Cao Thượng/ nhằm giúp chúng ta nhận thức được thực tại đời sống của con người và đưa ra con đường để hướng dẩn đến chỗ giải thoát khỏi những  điều bất hài lòng trong cuộc đời.

Trong bài này tôi sẽ trình bày:
I. Nội dung của Tứ Diệu Đế.
II. Nhận xét những lời Phật dạy trong Tứ Diệu Đế.
III. Kết luận.

 

I. Nội dung của Tứ Diệu Đế

Tứ Điệu Đế là 4 chân lý cao thượng gồm có:

1."Chân lý về duhkha" (Pa. dukkha, Av. the noble truth of duhkha), thường gọi là Khổ đế (the noble truth of Suffering). Các đại sư Trung hoa đã dịch duhkha là khổ (Hán. 苦,Av. suffering) từ hàng ngàn năm trước. Thành thử đại chúng đều quan niệm trọng tâm lời Phật dạy là "Đời là bể khổ" (Life is suffering). Quan niệm này đã ảnh hưởng trong văn chương và đời sống của dân chúng:        

        "Thoát sinh ra thì đà khóc chóe,
           Trần có vui sao chẳng cười khì."

             (Nguyễn Công Trứ, Chữ Nhàn)

Như vậy cuộc đời bị nhìn qua một cặp kính màu đầy những kinh nghiệm kinh khủng và bi quan. Đây là một sự hiểu lầm về "giáo lý của Đức Phật", về trọng tâm triết học của Phật giáo. Bởi vậy nhiều nhà nghiên cứu Phật học cho rằng Phật giáo là chủ nghĩa hư vô, là chủ nghĩa yếm thế.

Duhkha (Pa. Dukkha), Đức Phật đã dùng trong Kinh Chuyển Pháp luân, có một nghĩa rất rộng không chỉ giới hạn bởi các ý niệm như khổ sở (suffering), đau đớn (pain), buồn rầu (sorrow), chia ly (social alienation), lo âu (anxiety), căng thẳng (stress), điều không hài lòng (dissatisfaction) . . . Ví dụ như bịnh hoạn, già, chết, chia lìa, mất mát người thân yêu, bị bắt buộc sống với người mà mình không ưa thích ... Chúng tôi xin đề nghị chúng ta dùng chữ điều không hài lòng (dissatisfactoriness) để thay thế tiếng Hán Việt khổ.

Phản nghĩa của dukkha (Pa.) là sukha (Pa.). Theo chiết tự thì su = tốt, kha = cái lổ tròn của trục bánh xe; nếu lổ trục tốt thì xe ngựa sẽ di chuyển dễ dàng và ngựa sẽ kéo xe với tốc độ cao mà không bị trở ngại gì cả. Sukha thường được dịch là không trở ngại, là hạnh phúc (happy).

Hai ý niệm dukkha và sukha có một sự liên hệ với nhau. Nếu chúng ta chưa trải nghiệm về dukkha (không hài lòng, khổ đau ...) thì chúng ta khó nhận thức một cách sâu sắc và đánh giá đúng mức trải nghiệm về sukha (không trở ngại, hạnh phúc). Sukha được định nghĩa là trạng thái tự do xa lìa khỏi tham, sân và si; còn dukkha được định nghĩa là còn tùy thuộc vào ngũ uẩn, ngũ uẩn thì biến đổi liên tục. Đức Phật không bảo chúng ta phải bỏ sukha. Nói khác đi cuộc đời không chỉ có khổ mà cũng có những lúc con người được sung sướng (joyful) được hạnh phúc (happy). Ví dụ như: thi đậu, được học bổng đi du học, làm việc được thăng quan tiến chức, cưới được người mình yêu, ngay cả trong lúc làm tình (sexual intercourse) cũng cảm thấy sung sướng . . . Nhưng Đức Phật cho rằng hạnh phúc, sung sướng thì không kéo dài lâu, thay đổi luôn, do đó rồi dukkha, những điều không hài lòng, lại đến.

Đức Phật nói: mọi vật đều thay đổi, đều vô thường (every thing is impermanent) thì không chỉ Sukha bị thay đổi luôn mà dukkha cũng thay đổi luôn. Trong văn học Việt Nam, chúng ta cũng thấy diễn tả những thay đổi này:
                "Số khả bĩ rồi thời lại thái,
                  Cơ thường Đông hết hẳn sang xuân."

                (Nguyễn Công Trứ, Vịnh cảnh nghèo)

hoặc trong thành ngữ: "Qua cơn bĩ cực đến hồi thái lai" (Đã qua giai đoạn gian khổ và bắt đầu thời kỳ hưởng sung sướng).

Trong Kinh chuyển Pháp luân, Đức Phật nói "dukkha" đã xuất hiện trong đời sống bình thường qua các  hoàn cảnh như sau:
1.Những điều kiện không được hài lòng về sự thay đổi về vật và sinh lý như già, bịnh và chết.
2.Những điều kiện không được hài lòng về những cảm xúc tâm lý như buồn rầu, sầu khổ vì bị mất mát lớn người thân qua đời, thất tình, tình duyên trắc trở, mất mát tài sản, mất việc làm, mất chức . . .
3.Những điều không được hài lòng như phải sống với những người mình không ưa thích, hoặc sống trong hoàn cảnh mình không ưa thích.
4.Những điều không hài lòng như sự mong cầu điều gì mà không đạt được, thất vọng vì công danh lận đận, đau buồn vì bị thua cuộc trong canh bạc hoặc trong trò chơi chánh trị...
5.Con người thường bám víu vào những sự sung sướng, hạnh phúc vì nghĩ rằng nó sẽ kéo dài lâu, nhưng thật ra chúng dựa vào những điều kiện vật lý biến đổi luôn luôn và những điều kiện tâm lý cũng biến đổi luôn luôn trong đời sống hằng ngày. Những điều kiện vật lý-sinh lý và tâm lý đều được hợp thành bởi "ngũ uẩn", mà ngũ uẩn thì tùy thuộc lẫn nhau và biến đổi không ngừng, vì vậy con người sẽ trải nghiệm những điều mình không bằng lòng. Khi đang sung sướng hay hạnh phúc (sukha) thì đau đớn hay âu lo (duhkha) như đang ẩn tàng; và ngược lại, cứ như thế mà xen lẫn tiếp tục không ngừng.

Lão Tử (老子, Trung Hoa, sống khoảng ở thế kỷ 4 tr. CN), trong quyển Đạo Đức Kinh  (道德經) đã có ý tưởng tương tự: 祸  兮 福 之 所 倚,  福 兮 祸  之 所 伏 (Họa hề phúc chi sở ỷ; phúc hề, họa chi sở phục) chương 58, có nghĩa là "Họa là chỗ dựa của phúc, phúc là nơi ẩn náu của mối họa". Như vậy họa rồi phúc, phúc rồi họa cứ xen lẫn tiếp tục không ngừng. Nói khác khi gặp may phải phòng cái rủi ro do cái may ấy đưa đến, hoặc ngược lại; trong vinh quang ắt có nhục, và ngược lại. Bởi vậy, Nguyễn Công Trứ , trong bài thơ " Vịnh Cây thông" đã viết "Khi vui muốn khóc/Buồn tênh lại cười".

Heraclite cũng có ý nghĩ tương tự:  "Những trận đại thắng là những trận đại bại" (Les plus grandes victoires sont les plus grandes defaites).

Nói tóm lại, duhkha không phải là một ý niệm trừu tượng, chúng ta ai ai cũng trải nghiệm qua duhkha trong cuộc đời của mình, có lúc nhẹ, có lúc nặng. Vì vậy Đức Phật giảng nguyên nhân của duhkha/ của tình trạng không được hài lòng.

Khi tìm hiểu về cuộc đời của Đức Phật Thích ca, chúng ta biết rằng khi Ngài còn là Thái Tử Siddhartha Gautama thì Ngài đã sống khép kín trong hoàng thành của vua cha nên Ngài đã không biết đời sống thực tế của con người bình thường như bịnh hoạn, chết chóc và đau khổ cho đến khi Ngài đi ra ngoại thành và chứng kiến được thực tại của cuộc đời như lão, bịnh, tử và các tăng sĩ tu khổ hạnh. Qua 4 trải nghiệm này, Ngài đã bắt đầu hiểu được cuộc sống ở xung quanh Ngài. Do đó Ngài đã quyết định xuất gia để đi tìm phương cách cứu giúp đời. Sau khi Ngài giác ngộ, Ngài liền thuyết giảng lời dạy của mình ở Vườn Lộc Uyển (Deer Park):

"Này các thầy Tỳ Kheo! đến khi Như Lai thấu triệt Bốn Diệu Đế/ Bốn Thánh Đế (insight and understanding of the Four Noble Truths/Four Holy Truths), về 3 phương diện (three stages) và đủ mười hai phương thức(twelve aspects) một cách hoàn toàn sáng tỏ thì đến lúc đó Như Lai mới xác nhận trước thế gian này gồm có cả chư Thiên (Gods), Ma vương (Maras), Phạm thiên (Brahmas), Đạo sĩ (Recluses), Giáo sĩ Bà-la-môn (Brahmans), Con người (Humans) và loài ngoài hạng con người nữa (Some-One) rằng Như Lai đã đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và rằng lúc ấy tri kiến và nhãn kiến phát sanh thì tâm của Như Lai được giải thoát và không còn lay chuyển. Đây là kiếp sống cuối cùng của Như Lai, Như Lai sẽ không bao giờ tái sanh nữa."
(Xem bài Kinh chuyển Pháp luân, dịch và chú của NVT)

2.Nguyên nhân của Duhkha (Sameda Duhkha, Av. the cause of Duhkha), đây là chân lý cao thượng thứ hai.

Duhkha là hậu quả của các lòng ham muốn, những đòi hỏi các điều mà chúng ta cho là hạnh phúc, nhưng chúng ta sẽ không bao giờ hài lòng mãi mãi những gì chúng ta đang có; và rồi những điều này thay đổi làm chúng ta không hài lòng.
Lòng tham luyến còn đưa đến sự bám chặt vào tư tưởng, quan điểm, lý thuyết và niềm tin. Chính nó sản xuất ra chủ nghĩa giáo điều (dogmatism), những thành kiến, cố chấp. Đây cũng là điều gây ra nhiều "những sự không được hài lòng" hoặc khổ sở cho người khác.

3.Diệt trừ duhkha (Nirodha Duhkha, Av. the cessation of Duhkha), đây là chân lý cao thượng thứ ba.

Trong bài "Kinh chuyển Pháp luân", Đức Phật nói:
"Này các Thầy Tỳ Kheo! Đây là chân lý cao thượng về sự diệt trừ khổ đau. Đó là sự chấm đứt lòng ham muốn, không còn luyến tiếc."

Các phiền não, ham muốn, lòng luyến tiếc cần phải được diệt bỏ. Trong "Kinh Chuyển Pháp Luân", Đức Phật đưa ra ý niệm về Nirvana (Pa. Nibbana; phiên âm Hán Việt, Niết-bàn). Nirvana nguyên gốc có nghĩa là thổi tắt lửa (blowing out/ putting out/ extinguishing a lamp or fire), thổi tắt đèn để chấm dứt lửa cũi. Trong ý nghĩa triết học và tâm linh thì Nirvana có nghĩa là chấm dứt các phiền não, chấm dứt lòng ham muốn, chấm dứt lòng luyến tiếc để đạt được tình trạng an nhiên tự tại. Nirvana là sự chấm dứt tam độc: tham, sân và si. Nirvana không do một yếu tố nào sản sanh ra nên Nirvana được gọi là một trạng thái không có điều kiện nào chi phối cả.

Nirvana đạt được bởi Bát Chánh Đạo là con đường đưa tới tận diệt duhkha ở "Chân lý Cao thượng thứ tư".

4.Con đường dẩn đến sự diệt trừ duhkha = Bát Chánh Đạo. Đây là chân lý cao thượng thứ tư.

Trong bài "Kinh Chuyển Pháp Luân", Đức Phật đã chỉ dẩn con đường dẩn đến sự diệt trừ duhkha:
"Này các thầy Tỳ Kheo! Phép tu hành theo con đường ở giữa mà Như Lai đã ngộ là sự tu hành để phát triển nhãn quan, tri kiến, đưa đến sự an tịnh, trí tuệ cao siêu, giác ngộ và Niết-bàn là gì? – Đó là Bát Chánh Đạo(*1) (Hán-Việt. 八正道, Sa. Ārya 'ṣṭāṅga mārgaḥ, Pi. Ariyo aṭṭhaṅgiko maggo, Anh. Eightfold path).
Bát Chánh Đạo là con đường có 8 chi nhánh (eightfold) là: 1.-Chánh Kiến (
正見, Pa. Samma ditthi, Anh. Right view), 2.-Chánh Tư duy (正思唯, Pa. Samma sathkappa, Anh. Right intention), 3.-Chánh Ngữ ( 正語 ,Pa. Samma vaca, Anh. Right speech), 4.-Chánh Nghiệp (. 正業 , Pa. Samma kammanta, Anh. Right action), 5.-Chánh Mạng (正命 Pa. Samma ajiva, Anh. Right Livehood), 6.-Chánh Tinh Tấn (正精進, Pa. Samma Vayama, Anh. Right Effort), 7.-Chánh Niệm (正念, Pa. Samma sati, Anh. Right Mindfulness), 8.-Chánh Định (正定,  Pa. Samma Samadhi, Anh. Right Concentration)."
(Xem bài Kinh Chuyển Pháp Luân dịch và chú của NVT)

Đức Phật giải thích 'Tứ Diệu Đế" như là một phương pháp để trị liệu một cơn bịnh của Bác sĩ Y khoa:
         1.Thứ nhất là ý thức về triệu chứng của cơn bịnh (the sympton).
         2.Thứ hai là phân tích tìm hiểu nguyên nhân của cơn bịnh (the Diagnosis).
         3.Thứ ba là sau khi phân tích nguyên nhân cơn bịnh thì tìm phương cách cứu chữa cơn bịnh  
             (the prognosis).
         4.Thứ tư là đưa ra toa thuốc để chửa trị cơn bịnh (the prescription).

"Bốn Chân lý Cao thượng" này đã chỉ dẩn một hành trình từ một con người có đời sống bình thường, được coi là có đặc tính duhkha ẩn tàng để tiến đến đời sống được tự do, an bình và hạnh phúc mà Đức Phật gọi là đạt được Nirvana .

 

II.-Nhận xét những lời Phật dạy trong "Tứ Diệu Đế":

             Nếu xét "Tứ Diệu Đế" theo nguyên lý nhân quả thì chúng ta có thể sắp xếp như sau:
               *2.Nguyên nhân (cause): duhkha do lòng tham luyến.
                 1.Hậu quả (effect): duhkha là một thực tại có thực nơi con người, sự            
                    không bằng lòng, sự khổ sở, là hậu quả của lòng ham luyến.

                **4.Nguyên nhân (cause): Bát Chánh Đạo.
                   5.Hậu quả (effect): Diệt bỏ được duhkha, chấm dứt sự tái sanh và đạt
                     được Nirvana.

Vào thời đại của Đức Phật, các hiền triết đã đưa ra hai giải pháp khi con người đối đầu với duhkha (những điều không bằng lòng, sự khổ sở . . .) như sau:

              1. Tìm cách thay đổi những điều kiện hay hoàn cảnh không vừa ý, tìm những gì vĩnh cữu để đặt niềm tin vào đó.
              2.Chấp nhận sống với duhkha.

 

Đức Phật thì dạy rằng "mọi vật đều vô thường" (every thing is impermanent) và không có tự tánh, nên Ngài đã đề nghị con đường để con người vượt khỏi duhkha là hãy bỏ ý nghĩ cho rằng mọi vật luôn luôn giữ y nguyên bản tính của nó, tức là hãy bỏ ý nghĩ rằng mọi vật là thường hằng, hãy bỏ ý nghĩ cho rằng mọi vật thì độc lập và có tự tánh. Như vậy con người hãy thay đổi quan niệm của mình, đừng đi ngược lại luật vô thường của vũ trụ.

Thật ra thì việc diệt bỏ hẳn lòng ham muốn thì không phải dễ dàng thực hiện, tuy nhiên chúng ta có thể tiết giảm lòng ham muốn như quam niệm của Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858):

                     "Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc,
                       Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn."
                            (Nguyễn Công Trứ,  Chữ Nhàn)
         (Biết đủ là đủ, đợi cho đủ thì bao giờ mới đủ,
           Biết nhàn là nhàn, đợi cho nhàn thì bao giờ mới nhà.)

Ngày nay, chúng ta nhận thấy người đời khi đối đầu với duhkha thường có thái độ nhu sau:
         "Đứng trước sự thất bại, trước hoạn nạn, con người có thể có thái độ, có triết lý về cuộc đời khác nhau:
           1.      Chấp nhận: con người cho rằng tại số trời, tại định mệnh đã an bài: “Học tài thi phận”, “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.
           2.      Coi như một bài học kinh nghiệm: con người cho rằng thất bại là một kinh nghiệm sống có ý nghĩa nhờ đó mình có thể vươn lên sự thất bại để đi đến sự thành công trong tương lai. Người quân nhân thua trận có thể cho rằng: “can cường trong chiến bại”.
           3.      Không thể chịu đựng: con người đăm ra chán đời, thấy cuộc đời là phi lý. Do đó, con người hoặc phản kháng lại cuộc đời, hoặc đi tu, hoặc tự tử, hoặc rời khỏi quê hương đi tìm tự do v... v...
           4.      Đi tìm cái thành công trong sự thất bại: con người cho rằng ý nghĩa của cuộc đời không phải chỉ ở chỗ thành công hay thất bại mà ở nơi sự cố gắng, ở nơi nổ lực phấn đấu và chiến đấu không ngừng: “Đừng lấy thành bại mà luận anh hùng”.
  (xem bài "Đạo Phật như là một triết học hay như là một tôn giáo" của NVT)

Cùng một triết lý về cuộc đời luôn bị duhkha ẩn tàng. Hai nhà viết bi kịch Sophocles (Hy lạp, khoảng 496 - khoảng 406 tr. CN) và Aeschylus (Hy lạp, khoảng 524 - khoảng 455 tr. CN) đã lập lại một điệp khúc để cảnh báo người đời rằng: "Không có người nào tự cho rằng mình hạnh phúc cho đến khi người ấy chết" (Let no man (or woman) count himself (or herself) happy until he (she) is dead.). Như vậy, người Hy Lạp ngày xưa đã thấu hiểu rằng đời sống thì có nhiều biến cố, có nhiều chuyện xảy ra hoặc làm con người không hài lòng, hoặc làm kinh hoàng trong cuộc đời của con người cho đến khi chết, chứ không có ai có thể có được hạnh phúc đến cả trăm năm của đời người. Theo quan niệm này thì ngay cả Vua Chúa, Giáo chủ cũng không được hạnh phúc, cũng sống trong duhkha. Triết lý nhân sanh của hai nhà bi kịch Hy lạp chỉ dừng lại ở chỗ cho rằng con người không đạt hạnh phúc trong cuộc đời, nhưng thuyết "Tứ Diệu Dế" của Đức Phật thì siêu diệt hơn vì Ngài còn chỉ dẩn con người con đường diệt trừ duhkha để đạt được hạnh phúc.

III.-Kết luận:

        Đức Phật đã dạy chúng ta làm cách nào để chấm dứt duhkha khi nó bắt đầu phát khởi: chúng ta có thể thay đổi tâm thức của chúng ta khi đang trải nghiệm duhkha. Con người thì không hoàn toàn đồng nhất với nhau, nên con đường mà Đức Phật đã vạch ra không phải ai cũng đều áp dụng y như nhau. Mỗi người phải tìm ra con đường thích hợp cho chính hoàn cảnh của mình. Đức Phật nói: "lời dạy của Như Lai như là ngón tay chỉ mặt trăng. Đừng lầm lẫn ngón tay là mặt trăng" (My teaching is like a finger pointing to the moon. Do not confuse about the finger as the moon.)

 Duhkha có thể nhận biết từ hai hình thái chính:

         1.Đau đớn (pain) là trải nghiệm về sinh-vật lý. Ví dụ: sự đau nhức của bắp thịt, nhức đầu, đau khớp xương, lạnh run, nóng, đau lưng kinh khủng, đau phía dưới bắp chân, đau nhức ở vết thương. Những nguyên nhân sinh-vật lý sanh ra đau đớn; khi bị đau đớn, chúng ta có thể dùng thuốc men để trị liệu.

         2.Khổ sở (suffering) là trải nghiệm về tâm lý. Sự khổ sở có thể hoặc không có thể liên kết với đau đớn. Như đã biết khổ sở là trải nghiệm về sự thay đổi không được vừa lòng trong cuộc đời: thi rớt, mất người thân (cha, mẹ, vợ, chồng, con), mất việc làm, làm ăn thất bại, thất tình, căng thẳng trong công việc làm hoặc kết quả xấu từ tờ trình bệnh lý của Bác sĩ . . . Những nguyên nhân tâm lý sinh ra khổ sở có thể làm dịu bớt bằng những yếu tố tâm linh, ở đây, chúng ta có thể áp dụng lời Phật dạy: đừng bám víu vào những gì mình có vì mọi vật đều vô thường. Có nhiều trường hợp sự đau đớn thể xác cũng được thuyên giảm nhờ sự trấn an trạng thái giao động tâm lý.
Tóm lại, Tứ Diệu Đế đã giúp ta ý thức được duhkha (những điều không hài lòng, khổ sở, căng thẳng...) trong cuộc đời và giúp ta đi đến con đường giải thoát.                

                                                      

Toronto,  01 February 2017
Nguyễn Vĩnh Thượng
Cựu  Giáo sư Triết học (1969-1975) tại các trường Petrus Ký, Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn An Ninh, Cần Đước và trường Sư Phạm Saigon

 

**Tài liệu tham khảo chính yếu:


-Đức Phật Thích-ca, Kinh chuyển Pháp luân, dịch và chú bởi NVT, 2016.
-Bhikkhu Bodhi, edited & introduced, In the Buddha’s Words: An Anthology of Discourses from the Pali Canon, Foreword by The Dalai Lama, Boston: Wisdom Publications, 2005.
-Gombrich, Richard, Theravada Buddhism, London: Routledge, First published 1988, Reprinted 1991, 1994, 1995.
-Kalupahana, David J., Buddhist Philosophy: A Historical Analysis, Honolulu: University of Hawai Press, 1976.
-Kimura Taiken, Nguyên Thủy Phật giáo Tư Tưởng Luận; nguyên văn chữ Nhật, Hán dịch: Âu Dương Hãn Tồn, Việt dịch: Thích Quảng Độ, Saigon: ĐHVH, 1969. Chùa Khánh Anh ở Paris in lại, Phật học Viện Quốc tế ở California phát hành.
-Kyabgon, Traleg, The Essence of Buddhism: An Introduction to its Philosophy and Practice, Boston & London: Shambhala, 2001.
-Mai Thọ Truyền, Phật học đại cương, bài cours cho Tín chỉ Phật học đại cương, Khóa mùa xuân 1964, Viện Cao đẳng Phật học Saigon, in ronéo; bài cours (có bổ sung) cho chứng chỉ Lịch sử triết học Đông Phương, niên khóa 1967 - 1968, ĐHVK Saigon, in ronéo.
-Murti, T.R.V., The Central Philosophy of Buddhism, London: Unwin Paperbacks, First published in 1955, Reprinted in 1987.
-Narada, Mahathera, The Buddha and his Teachings, Kandy (Sri Lanka): Buddhist Publication Society, First enlarged edition: 1964, Second revised and enlarged edition: 1973.
-Rahula, Walpola, What the Buddha taught, New York: Grove Press, 1962.
-Thích Chơn Thiện, Phật học Khái luận, California: Thanh Văn, 1992.
-Thích Quảng Liên, Sử cương Triết học Ấn độ, Saigon: tác giả x.b., bài cours cho sinh viên chứng chỉ Triết học Ấn độ, ĐHVK Saigon, 1965.
-Thích Thiện Hoa, Tứ Diệu Đế, Cholon: Hương Đạo, 1970.
-Williams, Paul, Mahayana Buddhism, London: Routledge, First published 1989, Reprinted 1991, 1993.

 

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/01/2021(Xem: 6939)
“Tha Nhân Là Địa Ngục” (L’enfre, cest les autres/Hell is other people) là câu nói thời danh của triết gia Pháp Jean Paul Sartre. Trong vở kịch nhan đề Huis Clos (Cửa Đóng) tiếng Anh dịch là “Không lối thoát” (No Exit) và tiếng Việt có nơi dịch là “Phía Sau Cửa Đóng” trong đó mô tả ba nhân vật lúc còn sống đã làm nhiều điều xấu. Khi chết bị nhốt vào địa ngục nhưng không phải là “địa ngục” với những cuộc tra tấn ghê rợn về thể xác mô tả trong các tôn giáo, mà bị nhốt vĩnh viễn trong một căn phòng kín. Tại đây ba nhân vật bất đồng, cãi vã nhau- không phải vì cơm áo mà vì quan điểm, sở thích, cách suy nghĩ, tư tưởng, lối sống. Cuối cùng một người không sao chịu đựng được đã thốt lên “Tha nhân là địa ngục”. Câu nói này trở nên nổi tiếng và tồn tại cho tới ngày nay.
07/01/2021(Xem: 6030)
Vào năm 2004, Thư Viện Anh Quốc đã mở cửa đón khách vào thưởng một “pháp bảo” của Phật giáo Trung Hoa mang tên “Kinh Kim Cang”, đó là một trong những cổ vật chính được trưng bày tại cuộc triển lãm “Con Đường Tơ Lụa. Bên cạnh cuốn “Kinh Kim Cang” còn có những cổ vật khác được giữ gìn hoàn hảo hơn 1000 năm qua như : một súc lụa, một tấm thảm trải trước lò sưởi tại ngôi nhà bỏ hoang đã 1.100 năm, một cuộn len 1300 năm tuổi … Phần lớn cổ vật trưng bày tại triển lãm được lấy từ bộ sưu tập của Sir Marc Aurel Stein.
07/01/2021(Xem: 5617)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5533)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6938)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4324)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9159)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5495)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5127)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5721)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]