Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Công Trình Giáo Dục Của Phật Giáo Tại Mỹ

05/11/201620:02(Xem: 8805)
Công Trình Giáo Dục Của Phật Giáo Tại Mỹ


ht-thich-phuoc-tinh

Công Trình Giáo Dục Của Phật Giáo Tại Mỹ


Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kính bạch hiện tiền chư Tôn Đức Tăng Ni.
Kính thưa quý Đồng hương, Phật tử.

Chúng con rất cảm ơn chư Tôn Đức Tăng Ni đã cho phép chúng con đóng góp một vài suy nghĩ rất hạn hẹp của mình đến công trình giáo dục của đạo Phật tại Mỹ.

I. Bản chất công trình giáo dục của đạo Phật.

Chúng ta đều biết, giáo dục là công trình quan trọng hàng đầu cho mọi nền phát triển của xã hội văn minh. Giáo dục xây dựng tính nhân văn cho một quốc gia và làm thành nhân cách sống con người cao quý, thiện lành, đẹp đẽ và hạnh phúc cho từng cá nhân trên hành tinh này. Đạo phật đã có một bề dầy 26 thế kỷ của công trình giáo dục, tạo thành mảng văn hóa lớn cống hiến cho xã hội loài người từ quá khứ đến hiện tại. Nền tảng giáo dục của đạo Phật xưa cũng rất xưa, nhưng mới cũng rất mới do đặc tính khai phóng, nhân văn, nâng cao trí tuệ, lòng thương yêu và tự do con người lên đến tuyệt đỉnh; trên nền tảng nhân bản - lấy con người làm bản vị - mà không hề đặt thân phận con người vào bàn tay của đấng Thần linh nào từ bên trên áp đặt. Thế nên, xã hội càng văn minh, nhu cầu hiểu biết và hạnh phúc con người càng cao, thì càng nhận ra đạo Phật mở cho họ nhiều cánh cửa hiểu biết, nhiều phương pháp thực tập đầy trí tuệ để thành tựu phẩm chất đời sống tự thân và cộng đồng. Đây là sắc thái đặc thù chưa tìm thấy nơi dòng chảy tâm linh nào ngoài đạo Phật.

Trong quá khứ, từ nguồn chảy ban đầu trên đất Ấn, đức Thế Tôn đã không chấp nhận một tôn giáo cuồng tín nơi vị giáo chủ, một nền giáo dục đạo Phật nhồi sọ niềm tin và phương pháp tu tập ỷ lại thần linh, phó thác đời mình vào tay người khác. Những phương pháp van xin, cầu khấn, trốn chạy bốn chân lý hiện thực giữa đời sống chưa từng có trong lời dạy của Ngài. Tuy nhiên, khi dòng chảy xa nguồn, đi qua các vùng văn hóa khác biệt, các bậc Thánh Tăng truyền bá chánh pháp đã ít nhiều mở ra những cánh cửa phương tiện để pháp hành của Phật đến được với người bản địa. Thế nên, có những hình thái sinh hoạt của đạo Phật hiện tại không hề là đạo Phật nguyên chất ban đầu. Sự thuận lợi của công trình phổ biến Pháp tuy có giúp người tiếp nhận Giáo Pháp rất dễ, nhưng đồng cũng thời tạo thành những nhánh chùm gởi, bám chặt vào thân cây hút cạn nhựa sống của đạo Phật nguyên sơ, đã làm cho bao người bỡ ngỡ khi nhìn vào hình thức sinh hoạt của Phật giáo hiện tại. Thiệt thòi hơn nữa, người tu chúng ta lại nhận lầm những nhánh chùm gởi chính là đạo Phật. Đây là một sai lầm to lớn không riêng gì đạo Phật Việt Nam mà chung cho người Phật tử Nam Bắc truyền Phật giáo.

Đất nước chúng ta đã tiếp nhận đạo Phật từ Ấn Độ đi ngang qua các vùng văn minh Trung Á, Hoa Hạ, Tây Tạng nhuộm đầy bản sắc và tập tục của các địa phương đạo Phật từng phát triển. Cộng thêm gần 2,000 năm gắn liền với niềm tin đa thần của dân tộc Việt, nên trở thành một gia tài cồng kềnh trên vai Tăng, Ni và Phật tử khó bề gỡ xuống. Càng khó hơn nữa là thay đổi não trạng ta đang tu học theo Phật giáo Đại thừa. Do vậy, để có thể thay đổi chính mình, đổi thay sinh hoạt đạo Phật, để sống còn và hành Đạo được trên đất Mỹ, không thể có con đường nào khác ngoài con đường giáo dục.

II. Hiện tình đạo Phật tại Hoa Kỳ.

Chúng ta – Tăng, Ni và Phật tử Việt – đã có mặt nơi đây khi lịch sử đất nước sang trang sau 1975 và nhiều đợt người đến, sinh ra và trưởng thành cho đến hiện tại. Nhìn chung, chúng ta đã làm được bao điều kỳ vĩ. Thế hệ thứ hai, thứ ba người Việt rất thành công trên miền đất Hứa. Các bậc Thầy có mặt từ trước đã xây dựng được cơ sở tự viện, duy trì được sinh hoạt tôn giáo, làm chỗ tựa tinh thần cho cộng đồng Phật tử Việt Nam. Đây là niềm tự hào rất lớn. Nhưng nhìn thật kỹ, có nhiều điều quan trọng vẫn còn mở ngõ đợi chờ. Chúng ta còn chưa làm cho đạo Phật có sức sống, đáp ứng nhu cầu tu tập cho người trẻ, nuôi dưỡng được các thế hệ tương lai trên đất Mỹ. Càng chưa mở được cánh cửa tu tập, để người bản địa đến với chúng ta. Dường như từ hình thức mái chùa đến nghi lễ tụng niệm, mũ miện nghi trang, cách thức truyền đạt Giáo pháp và văn hoá ứng xử của chúng ta đậm nét một đạo Phật hình thức rườm rà, già cỗi, cách biệt đời sống thực tiễn, chỉ có thể đáp ứng cho những người gìa Việt Nam sẵn tín tâm đã quy y tự ngày xưa. Có lẽ, tệ nạn này sẽ chảy dài mãi cho đến bao giờ chúng ta dám nhận diện những hạn chế của mình và quyết tâm thay đổi.

III. Nhu cầu giáo dục của Phật giáo Việt Nam tại Mỹ.

Một nhà xã hội học Hoa Kỳ đã bảo: “Cho dù bạn đánh sập nền kinh tế Mỹ đến tận đáy cũng không thể kéo sự phát triển khoa học và nền dân chủ nơi đây xuống thấp hơn, khi những trường đại học Mỹ vẫn sừng sững hiên ngang và luôn tỏa sáng”. Chắc hẳn rằng: đây không phải là lời tuyên bố vô căn cứ. Nước Mỹ đã dẫn dắt thế giới về mọi mặt của đời sống văn minh, do vì hệ thống giáo dục của họ từ thấp lên cao luôn sống động, mới mẻ và đi tới. Chúng ta chưa từng nghe từ ngữ “đổi mới chương trình giáo dục” của chính phủ Hoa Kỳ chỉ thị từ thời lập quốc đến hiện tại. Bởi lẽ bản chất nền giáo dục Mỹ luôn mới. Tự thân nó luôn đổi thay, thích ứng và dẫn dắt xã hội đi lên. 

Từ đấy, nhìn lại một dòng chảy tuệ giác được sinh ra từ đấng Giác Ngộ sống còn đến hôm nay, không chỉ đơn thuần vì đấy là chân lý mà còn do đặc tính hội nhập vào các nền văn minh, nhưng không mất phẩm chất của nội dung trí tuệ từ bi rất tinh túy. Biểu hiện và duy trì được sắc thái này, hẳn nhiên từ công trình khéo thích ứng và nền giáo dục khai phóng của đạo Phật đã luôn sóng vai cùng xã hội phát triển.

Trên nền tảng này, nhìn lại đường đi của đạo Phật Việt Nam nơi đất nước văn minh mà chúng ta hiện sống, sẽ thấy sự khập khiễng đáng thương của một hình thái Phật giáo mà chúng ta đang cố tình xây dựng nơi đất nước Hoa Kỳ. Có thể chúng ta vin vào muôn ngàn lý cớ để tự mãn, để ru ngủ và bằng lòng với sự sống còn của đạo Phật nơi đây - nhất là công trình giáo dục chung chung cho những người con Phật. Nhưng nếu quan sát đủ rộng và suy nghĩ đủ xa, chúng ta sẽ cùng chấp nhận rằng: Nếu cứ hình thức rườm rà và công trình giáo dục nặng nề của một đạo Phật mang đầy nhánh chùm gởi như sinh hoạt Phật giáo Việt Nam hiện tại, chúng ta chẳng những đánh mất mình mà mất luôn các thế hệ tương lai nhất là bội bạc với dòng tuệ giác sinh động của đức Thế Tôn đã hiến tặng cho nhân thế.

IV. Những đề xuất cho công trình giáo dục.

Cuối cùng, chúng con xin mạo muội đề xuất vài ý kiến cho công trình giáo dục Phật giáo nơi đây:

1. Nên có sự tham khảo và tiếp nhận ý kiến đủ rộng từ các bậc Thầy về nhiều lĩnh vực giáo dục trong xã hội và Phật giáo để xây dựng chân đế cho công trình giáo dục ngắn hạn và dài hạn của đạo Phật tại Mỹ.

2. Đặt trọng tâm vào đối tượng thanh thiếu niên, người trung niên trong xã hội. Khai triển những phương pháp thực tập, đáp ứng được nhu cầu đời sống rất thực của con người nơi đây.

3. Bỏ bớt những hình thức rườm rà lễ mạo, những tập tục không cần thiết, những tín ngưỡng nặng giáo điều và sùng thượng cuồng dại thành phần Tăng lữ. Hãy phục hồi một đạo Phật trong sáng, giản dị, sống động, hiện thực và hữu ích hơn từ nền tảng của giáo lý Nguyên thủy. Xây dựng lại nếp sống thanh đạm, trí tuệ và đạo hạnh của người xuất gia; sống hòa ái yêu thương, phụng sự tha nhân nhưng đầy hạnh phúc hiền minh qua pháp hành cho người cư sĩ giữa cuộc sống trần tục.

4. Tùy vào khả năng và vai trò của mỗi người con Phật có thể làm được – và ai cũng có thể làm được, là hãy thay đổi tự thân bằng công trình tự nuôi dưỡng mình từ pháp học và pháp hành thực sự nghiêm túc. Để có thể đến được với nhau bằng trái tim hòa ái tương kính và cùng hướng về tương lai, cống hiến một chút gì cho thế hệ kế tiếp. Chỉ ngần này thôi chúng ta mới mong đẩy được nền giáo dục Phật giáo tại Mỹ có được một hình hài khang kiện, tươi mới và sống động; thâm nhập vào văn hóa Mỹ để tồn tại và phát triển.

V. Kết luận.

Một đời giáo hóa của đức Thế Tôn, điều Ngài làm không mỏi mệt và di chúc cho các thế hệ người con Phật kế thừa là “giáo hóa thông”. Thần thông của đạo Phật không hề đi trên mây hay ẩn thân nơi này, hiện thân nơi nọ, mà thần thông là giáo hóa con người, tự mình chuyển hóa nghĩ suy, nói năng và hành động, để thành tựu an lạc hạnh phúc hiện tiền và chứng nghiệm giải thoát giữa cuộc sống trần thế. Thế nên, công tác giáo dục được nhiều thế hệ Phật tử đặt lên hàng đầu trong công trình hành Đạo. Có thể công trình này phải mất thời gian rất dài và cho phép bao cơ hội tái lập sau những lần lệch hướng. Thế nhưng, chúng ta hãy bắt đầu bằng con đường học thẳng vào Kinh tạng thuần chất nguyên sơ, đủ thông minh nhận ra những phần thêm thắt của các thế hệ Tăng sĩ kế thừa kiết tập. Đưa đạo Phật và người tu Phật trở về nguồn cội của pháp hành thực sự. Hẳn nhiên, khi học và thực tập sâu xa chúng ta sẽ khám phá rằng bản chất của chân lý được đức Thế Tôn khơi mở và hướng chúng ta đến giải thoát, vốn “phi thần linh và phi tôn giáo”. Bao giờ thành tựu được phẩm chất vô ngã này, chúng ta mới rời bỏ được tinh thần cục bộ, tự mãn và chấp chặt vào tông môn pháp phái, cùng nhau đẩy những việc làm chung đi xa hơn, đủ nhẫn lực hơn và chắc chắn sẽ thành công trong công trình giáo dục của đạo Phật trên đất nước Hoa Kỳ.

Cuối cùng, một lần nữa chúng con xin vô cùng biết ơn chư Tôn Đức Tăng Ni và quý đồng hương Phật tử đã lắng nghe con trình bày những suy nghĩ nông cạn của mình.

Xin chân thành tri ân các vị.

Orange County, ngày 09 tháng 04 năm 2016.

Thích Phước Tịnh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/09/2015(Xem: 5686)
Chùa Đá Vàng là kỳ quan tôn giáo của người Myanmar đồng thời là câu hỏi chưa có lời giải đáp của ngành khoa học địa lý. Chùa Đá Vàng hay Kyaiktiyo là điểm hành hương Phật giáo nổi tiếng thứ ba tại Myanmar, sau chùa Swedagon và đền Mahamuni, cách Yangon 200 km. Ngôi chùa nằm chơi vơi trên tảng đá khổng lồ ở vị trí chênh vênh cạnh vách núi cao 1.100 m. Những ai lần đầu nhìn đều cảm tưởng hòn đá sẽ lăn ngay xuống vực. Truyền thuyết Myanmar lý giải cho bố cục kỳ lạ này bằng câu chuyện của Đức Phật, tương truyền bảo tháp trên hòn đá chính là sợi tóc của ngài. Dù bạn có tin vào truyền thuyết hay không, trong khoa học địa lý đây là hiện tượng không thể lý giải.
27/09/2015(Xem: 9999)
Khi sống con người hay lãng phí thời gian làm những việc vô nghĩa, bởi lòng tham lam, ích kỷ của chính mình, tích chứa tiền bạc của cải nhưng không giúp gì cho ai? Có một con cáo đã phát hiện ra một chuồng gà, nó bèn tìm cách tiếp cận nhưng vì cáo nhà ta quá mập nên không thể chui lọt vào chuồng để ăn gà. Thế là nó đành phải nhịn đói suốt ba ngày liền mới có thể vào được chuồng gà. Sau khi vào được, nó đã ăn no nê để bù lại những ngày nhịn đói, giờ đây chiếc bụng của cáo đã phình to ra, nên không thể nào ra được nữa, thế là cáo đành phải nhịn đói trở lại ba ngày mới có thể ra khỏi chuồng gà.
25/09/2015(Xem: 7742)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng ở tuổi 80 của tôi thuộc thế hệ thế kỷ 20. Những người trẻ dưới 30 tuổi thuộc thế hệ của thế kỷ 21. Ngài thừa nhận rằng thế hệ của thế kỷ 20 đã tạo ra nhiều vấn đề, bao gồm cả thiệt hại cho môi trường. Một số ý tưởng của họ, chẳng hạn như quan điểm cho rằng vấn đề có thể được giải quyết bằng vũ lực hiện nay là hoàn toàn lỗi thời. Đức Đạt Lai Lạt Ma từ bến phà Millbank Pier đi đến The The O2 Arena, Greenwich, Luân Đôn, Vương quốc Anh. 19/09/2015. (Ảnh: Jeremy Russell)
24/09/2015(Xem: 7904)
Khi chung ta bước đi, với tâm địa Từ Bi rộng mở mang theo, làm tất cả những việc lành cho tất cả chúng sanh là chúng ta đã mở rộng biên giới hòa bình ngày một dang rộng. Những bước chân ấy đáng gọi là những bước chân Từ Bi. Có những điều khi tiếp cận với Phật học, dù với bất cứ trình độ nào, chưa chắc một sớm một chiều mình hiểu ra ngay hết được. Đôi khi phải đợi đến nhiều chục năm sau, thậm chí gần hết đời người rồi mình mới bừng tỉnh về một điều giác ngộ chưa trọn vẹn. Khi xưa mình nghe kể chuyện đức Phật Đản sanh, dưới bảy bước đi đều nở bảy đóa hoa sen. Thần thoại, truyền thuyết hay hư cấu cho lung linh một sự kiện về đấng giáo chủ của mình; hãy cứ để đó. Sau này ghé sang Làng Mai, chạm phải những công án Thiền của Ngài Nhất Hạnh, chúng ta bắt gặp câu “Từng bước nở hoa sen” thì mới vỡ òa nhiều khúc mắc ngày xưa còn kẹt lại trong một góc tối của tâm trí nào đó.
24/09/2015(Xem: 8939)
Sau tiếng ré lên của cái chuông bấm ở cửa, mình đã nghe tiếng chìa khoá lách cách tra vào ổ khoá của cánh cửa song sắt ở bên trong. Một chập sau, cánh cửa "Trại Cải Huấn Thanh Thiếu Niên Phạm Pháp" (Jugendarrestanstalt, viết tắc là JAA) tại Nienburg nặng chịt, rít lên tiếng sắt cọ sát trên thềm xi măng, mở ra. Bước chân vào, vài câu chào hỏi trao đổi với cô giám thị. Cửa chánh đóng lại. Cô giám thị hướng dẫn mình đi qua một cánh cửa song sắt. Lại đứng chờ. Sau khi nó lại khóa lại, thì có cảm giác "mình đi lại tự do trong Trại Cải Huấn" được rồi! Tiến về phòng điều hành. Từ bên ngoài đã thấy ông "xếp" trại, ba nam giám thị, cô giám thị khi nãy; hai cô tác viên xã hội (Sozialarbeiterin) và thêm bốn thiếu nữ lạ mặt. Ông "xếp" trại giới thiệu bốn thiếu nữ lạ ấy cũng là tác viên xã hội ở các tù khác đến tìm hiểu kinh nghiệm hướng dẫn của "thầy JIP" - tên là Diệp, nếu đọc không bỏ dấu và theo âm Đức thì là "Dieb"; mà "Dieb" có nghĩa là "kẻ cắp"! Còn nếu phát âm tương đối đúng thì v
24/09/2015(Xem: 8959)
Phải nói thật rằng câu hỏi này lởn vởn trong đầu tôi nhiều lần, trong nhiều năm nay. Nghe có vẻ ngớ ngẩn. Mà cũng có thể tôi là người ngớ ngẩn. Ai đời lại đi đặt câu hỏi mà đứa trẻ học tiểu học cũng có câu trả lời thế này. Ấy thế mà khi ngồi tĩnh tâm tại ngôi chùa lớn nhất thế giới Borobudur, Indonesia câu hỏi này lại hiện về. Hiện về 1 cách rất rõ nét. Đây là lần thứ 3 câu hỏi này làm tôi trăn trở nhiều nhất.
21/09/2015(Xem: 7524)
Hơn hai ngàn năm trăm năm trước, Tu Bồ Đề kính cẩn đặt câu hỏi với Phật: “...Làm thế nào để an trụ tâm, làm thế nào để hàng phục tâm?” (Vân hà ưng trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm?) thì Phật bảo rằng không có gì khó cả, các vị Đại Bồ tát đều hàng phục tâm bằng cách như vầy... như vầy...
21/09/2015(Xem: 9996)
Tôi gặp bà lần đầu tiên trong một phiên họp thường niên lãnh đạo Hiệp hội Xuất bản ASEAN diễn ra tại thủ đô Jakarta, Indonesia. Ấn tượng của tôi về lãnh đạo cao cấp này của Hội sách lớn nhất thế giới được tổ chức thường niên vào tháng 10 là bà rất nhẹ nhàng, rất Á đông, rất gần gũi, rất nhiệt tình. Tôi cũng đặc biệt vui khi bà quan tâm đến Việt Nam. Trong phiên hop này, lãnh đạo Hội xuất bản Việt Nam bận hết nên tôi làm trưởng đoàn. Vậy là ngoài các buổi làm việc chung với trưởng đoàn của Hội xuất bản các nước ASEAN tôi có các buổi làm việc riêng với nhiều lãnh đạo các nhà xuất bản các nước, trong đó có buổi làm việc với bà Claudia Kaiser, người phó chủ tịch rất hiểu biết và thân thiện của Frankfurt Book Fair.
21/09/2015(Xem: 7922)
Khi mẹ mất, con cháu đều có mặt. Qua bao năm đất nước tang thương, chiến tranh khốc liệt, đàn con gian truân trong nghề nghiệp, trong lửa đạn. Có đứa vào quân đội, cả năm không thấy mặt, không biết ở đâu. Sau chiến tranh mọi người đều tìm cách bỏ xứ. Đứa trước đứa sau, qua rừng qua biển, rồi tìm cách đưa được mẹ sang xứ người. Các con làm lại sự nghiệp, các cháu học hành giỏi, thành công vượt mực. Ai cũng nói: “Cụ thật có phước, cụ thật có phước, được Phật độ !”
20/09/2015(Xem: 11712)
Tâm dục được xếp hạng trên tất các sắc tướng, gọi là Sắc Dục, mà mê đắm sắc đẹp đưa đến dâm dục là điều cốt yếu của mọi vấn đề trên cõi Ta Bà. Tham dâm dục thôi thúc trong lòng khiến con người phải hành động để được thoả mãn ham muốn. Khi cái luồng chân khí ái dục này dâng lên thì si ái tình, khi đi xuống thì tham nhục dục. Mà ái có nghĩa là yêu thương thuộc tình cảm với cảm giác cao thượng. Dục là sự si mê, thèm khát thể xác. Khi dâng lên khi hạ xuống bất thường thì bị tẫu hỏa nhập ma, thất tình lục dục, đưa đến hành động phi luân, phạm pháp, vô đạo tai hại khôn lường cho mình cho người. Dục gồm có lục dục hay ngũ dục. Lục dục là sự ham muốn của sáu căn đối với sáu trần; mắt thích nhìn những sắc đẹp, tai thích nghe âm thanh êm dịu, mũi thích ngửi mùi thơm, lưỡi thích nếm những vị ngon, thân thích đụng chạm êm ái, ý thích nghĩ tới tham si. Ngũ dục là năm thứ ham muốn của người đời không dễ gì loại bỏ. Kinh Phật nói về Ác Dục, Niệm Dục: Chư hiền, nếu ai có ác dục, niệm dục th
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]