Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thanh Tịnh Thí

23/11/201521:05(Xem: 6852)
Thanh Tịnh Thí
 
blank

Namo Sakya Muni Buddha
 Thanh Tịnh Thí
 
Một thời Thế Tôn trú ở Kosambi, Ngài cho gọi các Tỷ khưu:
Này các Tỷ khưu, có bốn thanh tịnh thí vật này. 
Thế nào là bốn?
 
1, Có bố thí thanh tịnh từ người cho, không thanh tịnh từ người nhận;
2, Có bố thí thanh tịnh từ người nhận, không thanh tịnh từ người cho;
3, Có bố thí không thanh tịnh từ người cho cũng không thanh tịnh từ người nhận
4, bố thí thanh tịnh từ người cho cũng thanh tịnh từ người nhận.
 
Ở đây, này các Tỷ khưu, người cho có giới, (thiện pháp) còn người nhận là ác giới, (ác pháp). 
Như vậy là bố thí thanh tịnh từ người cho, không thanh tịnh từ người nhận.
 
Này các Tỷ khưu, ở đây, người bố thí không có giới, (ác pháp) còn người nhận có giới,(thiện pháp). 
Như vậy là bố thí người nhận thanh tịnh, người cho không thanh tịnh.
 
Ở đây, này các Tỷ khưu, người cho là ác giới, (ác pháp) và người nhận cũng là ác giới,(ác pháp). 
Như vậy là bố thí, người cho không thanh tịnh và người nhận cũng không thanh tịnh.
 
Này các Tỷ khưu, ở đây, người bố thí có giới, theo thiện pháp và người nhận cũng có giới, 
theo thiện pháp. Như vậy là bố thí người cho thanh tịnh và người nhận cũng thanh tịnh.
Này các Tỷ khưu, có bốn thanh tịnh thí vật này.
(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ I, chương IV, phẩm không hý luận, phần thanh tịnh thí vật, 
VNCPHVN ấn hành năm 1996, tr706).
 
 Bình Giải:
 
Bố thí và cúng dường là một trong những pháp tu quan trọng của hàng Phật tử. 
Tuy nhiên, để bố thí và cúng dường thực sự có lợi ích, mang ý nghĩa tịnh thí thì người 
cho  lẫn người nhận phải nỗ lực để tự hoàn thiện mình. Biện chứng tương quan giữa cho 
và nhận của tịnh thí cho thấy không phải hễ có tài vật là có thể cho một cách đúng pháp được
 đồng thời cũng không thể nếu có người cho, dù thành tâm mà có thể vô tư để thọ nhận được.
 
Người cho hãy quán sát xem những gì được đem cho xuất phát từ đâu, có phải tịnh vật hay không? 
Người nhận cũng nên tự vấn lương tâm xem mình đã xứng đáng, có phần nào tương ứng để thọ 
nhận sự bố thí và cúng dường, để hồi hướng phước báo cho thí chủ hay không? Nếu tương quan
 này khập khiễng tức giữa người cho hoặc giữa nhận không thanh tịnh thì sự tịnh thí không thành,
 thậm chí chỉ còn lại hình thức trao đổi, hoán chuyển giá trị như muôn vàn sự trao đổi khác trong
 cuộc sống. 
 
Vậy thì, muốn có được sự tịnh thí, người cho và người nhận chỉ cần tuân thủ nguyên tắc
 “có giới, theo thiện pháp”. Khi một người sống trong sự bảo hộ của giới pháp đồng thời nỗ lực
 làm các việc lành thì tự thân đã đầy đủ phước báo xứng đáng để cho và nhận. Trong mọi trường hợp, 
thành tâm và nhất tâm vẫn là điều kiện cơ bản và then chốt nhất để tác thành tịnh thí.
 
Cho là một nghĩa cử cao đẹp, là biểu hiện của tâm xả. Tuy vậy, để sự cho (thí xả) của mình 
đạt được phước báo viên mãn thì phải nỗ lực để thanh tịnh thí tức người cho, vật đem cho và 
người nhận phải thanh tịnh và nhất tâm. Nỗ lực tu học, sống “có giới, theo thiện pháp” nhằm 
trang nghiêm phước báo tự thân nhờ tịnh thí là phương châm sống của những người con Phật. 
Namo Buddhaya
 
blank
Là Thế Chuyện Đời
 
Cuộc đời chẳng lợi thì danh
Không danh thì lợi - Chẳng tranh mới nhường
Lòng người không ghét thì thương
Không thương thì ghét, không buồn thì vui.
Đường đời không tới thì lui
Không thăng thì giáng, không lùi thì lên. 
Ân tình không nhớ thì quên
Không thân, không thế - Không tiền, không yêu.
  
Tình đời nắng sớm mưa chiều
Mang lòng Thị Nở, Thúy Kiều ngoài da. 
Tâm hồn không Phật thì Ma
Vòng vo trăm kiểu nào qua Tình, Tiền
Trường đời không chức, không quyền
Không trên thiên hạ, không yên trong lòng.
Sự đời mới chuộng cũ vong
Không thương, ai giận, ai mong, ai chờ?
 
Sang giàu không hết bơ vơ
Nghèo xơ xác, vẫn biết Cho, không nghèo 
Nhân tình thế thái eo xèo
Tấm thân tứ đại bọt bèo sắc, không.
 
- Thiên thu vẫn thế lòng vòng
Nghêu ngao điệp khúc bềnh bồng, đổi thay
Mênh mang hư thực kiếp này
Hai bờ buông xuống, là đây lối về.
Sắc, thinh.. bỏ lại bên lề
Ngồi yên lặng lẽ tràn trề thái hư.
 
Người về trong cõi Như Như
Thương người ôm mộng khư khư.., cũng đành!
 
Như Nhiên 
Thích Tánh Tuệ
 
blank
x_3b9851b7 photo x_3b9851b7.gif
佛菩薩的願力之-南無大行普賢菩薩十大願 - LULUMACHA - lulumacha’s blog
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2021(Xem: 5462)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4458)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
07/02/2021(Xem: 5330)
Nhà thiền có danh từ Tọa Xuân Phong để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp. Danh từ đó, tạm dịch là “Ngồi Giữa Gió Xuân” Mùa Xuân chẳng phải là mùa tiêu biểu cho những gì hạnh phúc nhất trong bốn mùa ư? Hạ vàng nắng cháy, vui chơi hối hả như đàn ve sầu ca hát suốt mùa để cuối mùa kiệt lực! Thu êm ả hơn, nhưng nhìn mây xám giăng ngang, lá vàng lả tả, tâm- động nào mà không bùi ngùi tưởng tới kiếp nhân sinh?
07/02/2021(Xem: 5544)
Chú mục đồng chậm rãi bước xuống sông. Bên cạnh chú, con trâu lớn nhất đàn ngoan ngoãn xuống theo. Đôi mắt hiền lành của nó nhìn chú như mỉm cười, tin tưởng và thuần phục. Những con trâu bé hơn lại nhìn bước đi vững chãi, an lạc của con trâu đầu đàn mà nối nhau, cùng thong thả qua sông. Đây là khúc sông cạn mà chú đã dọ dẫm kỹ lắm. Đáy sông lại không có những đá nhọn lởm chởm có thể làm chân trâu bị thương. Bên kia sông, qua khu rừng có những cội bồ đề râm mát là tới đồng cỏ rộng. Mùa này, sau những cơn mưa, cỏ non vươn lên xanh mướt, đàn trâu gồm bẩy con mà chú có bổn phận chăm sóc tha hồ ăn uống no nê sau những giờ cực nhọc cầy bừa ngoài đồng lúa.
07/02/2021(Xem: 8676)
Khi những cơn bảo và áp thấp nhiệt đới hung hãn nhất vừa tạm qua đi, khí trời phương Nam cũng trở buồn se lạnh. Nhiều người cho đó là hoàn lưu của những cơn bão miền Trung mà tất cả con dân “bầu bí chung dàn” vẫn còn đang hướng về chia sẻ, nhưng ít người nhận ra rằng đó chính là cái se lạnh của mùa đông phương Nam, báo hiệu mùa xuân sắp đến nơi ngưỡng cửa của bộn bề lo toan hằng năm.
06/02/2021(Xem: 6565)
Mười bức “Tranh Chăn Trâu” trong phần này là của họa sư Nhật Bản Gyokusei Jikihara Sensei, vẽ vào năm 1982 nhân một cuộc thăm viếng thiền viện Zen Mountain Monastery ở Mount Tremper, New York, (Hoa Kỳ). Họa sư vẽ để tặng thiền viện. Các bài thơ tụng thời nguyên gốc của thiền sư Quách Am viết vào thế kỷ thứ 12. Thơ tụng được chuyển dịch ở đây bởi Kazuaki Tanahashi và John Daido Loori, sau đó được nhuận sắc bởi Daido Loori để mong tạo lập ra những hình ảnh và ẩn dụ cho thêm giống với phong cảnh núi sông ở quanh thiền viện Zen Mountain Monastery. Thiền sư Daido Loori là người lãnh đạo tinh thần và là tu viện trưởng của thiền viện này.
04/02/2021(Xem: 6281)
Hôm qua mình có giới thiệu cuốn sách Buddhism in America (Phật Giáo Mỹ) của Richard Hughes Seager. Có bạn hỏi thêm muốn tìm hiểu Phật Giáo Mỹ nên nhờ mình giới thiệu vài cuốn. Nghĩ rằng đây là câu hỏi hay nên mình xin viết giới thiệu 7 cuốn sách để nhiều người lợi lạc. 1. Cuốn The Faces of Buddhism in America (Diện Mạo của Phật Giáo ở Mỹ) do Charles Prebish 2. Buddhist Faith in America (Đức Tin Phật Giáo ở Mỹ) tác giả Michael Burgan 3. Buddhism in America của Richard Huges Seager (1999, tái bản 2012) 4. Buddhism in America của Scott Mitchell 5. Altered Traits: Science Reveals How Meditation Changes Your Mind, Brain, and Body, 2017 6. A Mindful Nation: How a Simple Practice Can Help Us Reduce Stress, Improve Performance, and Recapture the American Spirit, 2012, 7: American Dharma: Buddhism Beyond Modernity
01/02/2021(Xem: 4569)
Tại các nước nông nghiệp hình ảnh con trâu với đứa trẻ chăn trâu ngồi trên lưng trâu thổi sáo là một hình ảnh quen thuộc thường gắn liền với đời sống của người dân. Tại Việt Nam, từ lâu hình ảnh này đã đi vào tâm thức mọi người và không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào lãnh vực văn học nghệ thuật nữa. Trong văn học Phật giáo nói chung và văn học Thiền tông nói riêng thời hình ảnh con trâu với trẻ mục đồng đã trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật. Những hình ảnh này hiển hiện trong truyền thống kinh điển cũng như được đề cập đến nhiều lần trong những thời pháp của đức Phật khi Ngài còn tại thế.
01/02/2021(Xem: 9827)
Vào thời thái cổ, theo truyền thuyết Đế Minh là cháu bốn đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến núi Ngủ Lĩnh ( nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ). Vua Đế Minh đã dừng chân tại nơi nầy, ngài cưới Vu Tiên nữ con vua Động Đình Hồ làm vợ. Đế Minh sinh được một trai tư chất thông minh ngài đặt tên Lộc Tục. Vào năm 2879 trước tây lịch ( khoảng thế kỷ thứ 7 TCN ) Đế Minh phong cho con làm vua ở phương Nam. Lộc Tục lên ngôi xưng đế hiệu Kinh Dương Vương đặt tên nước là Xích Quỷ ngài đóng đô tại Phong châu.
01/02/2021(Xem: 6289)
Kinh Phật đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm, kinh Phật cuối cùng là kinh Đại Bát Niết Bàn. Chúng ta học hai kinh nầy để nắm trọn lịch trình của đạo Phật. Kinh Đại Bát Niết Bàn thường gọi là Niết Bàn là kinh vừa kể lại lịch sử đức Phật trước khi nhập diệt vừa là kinh nói về lời giáo huấn cuối cùng của ngài. Vừa tâm lý tình cảm vừa là lời nhắn nhủ sau cùng của Phật cho đạo tràng như người cha trăn trối cho con tiếp tục theo đường đi của ngài. Đời thế gian của Đức Phật khi sinh ra vì bào thai to lớn quá phải giải phẩu bụng của mẹ ngài nên mất máu mà mất sớm, ngài sống qua sự nuôi dưỡng của người dì em của mẹ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]