Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trường Sinh Bất Tử qua cái nhìn của nhà Phật

12/04/201517:34(Xem: 8607)
Trường Sinh Bất Tử qua cái nhìn của nhà Phật

HT. Thich Giac Nhien

 

 

       

 

 

         Từ ngàn xưa, con người đã hằng nung nấu, ôm ấp ước mơ được trường sinh bất tử. Tuy nhiên, sự bất tử trường sinh dường như chỉ thấy có được trong những câu chuyện thần thoại hoang đường, hay truyền thuyết mơ hồ viễn vông.

        Trường sinh, sống lâu sống thọ, sống dài dài nhưng hữu hạn chứ không phải vô hạn bất cùng, thì có. Bất tử, hiểu theo nghĩa đen là không bao giờ chết, thì không. Sau, quan niệm bất tử đã được suy nghĩ và thay đổi lại, con người không thể không chết đi, không thể tồn tại mãi với thời gian vùn vụt trôi và không gian đầy ô nhiễm bụi bặm, vì vậy “đã mang tiếng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông” (Nguyễn Công Trứ). Để lại tiếng thơm, để lại một công trình, để lại chiến công oanh liệt vẻ vang, hay để lại một tinh thần bất khuất quả cảm… đó là một cách để bất tử với nhân quần xã hội. Còn trường sinh? Tần Thuỷ Hoàng, hay Từ Hy Thái Hậu, đều đã từng ôm mộng trường sinh của bậc bạo chúa mà mang theo về cõi cát bụi hư vô. Phương Đông có thuật Yoga (Du Già thuyết) ở Ấn Độ, có phương pháp Thiền định (Zen) phối hợp với gạo lứt muối mè theo cách thức “nhai thức uống, uống thức ăn” ở Nhật Bản… đã mang lại những thành công tương đối trong cuộc kiếm tìm trường sinh đại thọ cho con người. Nhưng các thuật trường sinh đầy công phu, đòi hỏi sự quyết tâm và kiên trì ấy, đều phải phối hợp với rất nhiều yếu tố khác, bao gồm cả ở nội tâm lẫn ngoại cảnh, nếu thiếu đi một yếu tố ắt xôi hỏng bỏng không, uổng phí một công phu tu luyện.

         Với nhà Phật, giáo lý siêu việt của Đức Thích Ca Mâu Ni luôn chú trọng về nhân quả báo ứng, về nghiệp duyên luân hồi, cho nên sẽ không có những phương pháp chỉ dạy cho chúng sinh lao theo những cuộc tìm kiếm vô vọng sự bất tử trường sinh ở trần gian tạp uế; mà chỉ có con đường Chánh đạo dẫn cho con người tìm đến với an vui thanh thản, với siêu thoát thường hằng. Làm sao con người bất tử được khi duyên nghiệp kiếp này của mình đã dứt? Làm sao trường sinh được khi “cái số” của mình là… mệnh yểu? Làm sao sống lâu hơn trăm tuổi để hưởng thụ cuộc sống phú quý sướng vui, khi cái nghiệp ác của mình đã tạo tác từ kiếp này, hay kiếp trước, đã đến hồi phải vay trả sòng phẳng? Hết duyên, hết nợ là dứt sạch. Còn nợ còn duyên thì phải lo mà trả cho đầy đủ, dù đang có một cuộc sống bần cùng cực khổ, hay đang thọ hưởng một cuộc sống nhung lụa cao sang, rồi muốn đi đâu thì đi!

           Giáo lý nhà Phật chỉ cho con người phương pháp đoạn trừ phiền não, dứt lìa khổ đau, liễu sinh thoát tử tìm đến an nhiên cực lạc qua mỗi bước chân hùng lực không rời Bát Chánh Đạo. Trường sinh bất tử có chăng thì cũng chỉ hiện hữu tồn tại ở một cõi siêu thoát vĩnh hằng vượt khỏi vòng luân hồi (Niết Bàn), cõi bất sinh bất diệt, mà chỉ bậc giác ngộ chân tu mới chứng đắc được tận cùng rốt ráo. Giáo lý nhà Phật không phán bảo khuyên răn con người phải lưu luyến tiếc nuối một kiếp sống đầy khổ luỵ bi ai với đủ tử biệt sinh ly thất tình lục dục ở cõi trần gian giả tạm vọng ảo. Pháp Phật chỉ hướng dẫn cho chúng sinh đang còn ngụp lặn trong bể khổ trầm luân cách thức tu hành để tự mỗi người giải thoát cho mình, và nếu thuận duyên thì cho cả tha nhân, được thoát ly sanh tử ngay cuộc sống hiện tiền bằng cách nỗ lực tu tập, tinh tấn thực hành những giới hạnh oai nghi và công năng thiện lành. Tu là chuyển nghiệp, chúng sinh có thể chuyển được cái nghiệp của mình, làm cho nhân quả báo ứng có thể sẽ xảy đến với mình trong kiếp sống này được hoá giải, được tiêu tan, hay được thay đổi qua đầy vơi dầy mỏng ít nhiều tròn méo… bằng chính sự tĩnh tâm tu niệm, nhất tâm hành trì, thành tâm sám hối của chính mình.  Hoà thượng Thích Quảng Đức không phải đã để lại nhân thế này một trái tim bất tử đó sao? Các vị Hoà thượng, Tăng Ni và Phật tử đã vị pháp thiêu thân, bảo vệ Hiến Chương trong các thời kỳ Pháp nạn, hoặc để cầu nguyện Hoà Bình, như: Thích Tiêu Diêu, Thích Quảng Hương, Thích Nữ Diệu Quang, Đoàn Thị Yến Phi, Nhất Chi Mai, Quách Thị Trang… vân vân và vân vân… há chẳng phải là những con người đã đạt được bất tử đó sao? Xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, chộp bắt được sự bất tử ngay trong cửa tử!

         Vậy còn trường sinh? Xin kể sơ lược nơi đây tiểu sử và cuộc đời hành đạo của một vài vị danh tăng Việt Nam hiếm hoi đã “đắc” được trường sinh đại thọ, để chúng ta cùng gẫm suy những điều kỳ diệu diễn ra ngay trong cuộc sống, cũng như để học hỏi noi gương những đạo hạnh cao quý có thể mang lại cho con người những tháng ngày tự tại vô ngại trước sinh tử luân hồi. Xin kể đến chư vị cao tăng nước nhà đã sống trên 100 năm, con số bách niên mơ ước của rất nhiều người.

           Trước tiên, xin nói đến vị “Danh tăng trường thọ” có lẽ sống lâu nhất trong lịch sử Phật giáo nước ta cho đến thời điểm này: Đại lão Hoà thượng Thích Đạt Thanh, pháp hiệu Như Bửu, thế danh Võ Minh Thông. Sư xuất thân trong một gia đình quy ngưỡng tôn kính Phật Pháp, được sinh ra vào năm 1853, dưới triều Tự Đức năm thứ 6, tại phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (nay là huyện Hóc Môn-TP. Hồ Chí Minh). Theo lời song thân của Sư kể lại, ngày mà Sư chào đời bỗng dưng có một đàn bồ câu không rõ xuất xứ ở đâu bay lại đậu kín trên mái nhà, con gáy con gù, con nhảy con nhót như đang hoan ca hoan hỷ. Cho đó là điềm báo an lành linh thiêng, song thân Sư liền thiết lập bàn thờ Phật, phát nguyện ăn chay trường, trì kinh niệm chú. Thông minh hiếu học từ thuở nhỏ, Sư đã không chỉ thông làu kinh điển mà còn tinh thông xuất sắc cả võ nghệ, nhưng lại luôn tỏ ra rất khiêm tốn nhún nhường. Năm 12 tuổi, Sư được cha mẹ đồng thuận cho xuất gia học đạo với Tổ Minh Phương- Chơn Hương ở chùa Linh Nguyên. Qua 2 năm tu học tinh cần, Sư được sư phụ đưa sang tu học thêm kinh điển với Tổ Minh Vi-Mật Hạnh tại chùa Giác Lâm. Rồi thời gian dài tiếp sau đó, Sư đã được nhiều phước duyên thọ giáo với chư vị Hoà Thượng giáo thọ danh tiếng uyên thâm và đạo hạnh, nên sớm trở thành một tăng nhân nổi tiếng trong Thiền lâm đương thời. Từ năm 1879, Sư được tôn cử làm trụ trì các chùa Linh Nguyên, Long Quang. Năm 1926, Sư tham gia tổ chức yêu nước Thiên Địa Hội chống chế độ cai trị của thực dân Pháp, bị bắt đày đi Côn Đảo. Sống khổ sai trong địa ngục trần gian suốt 4 năm trời, như đã sống trong cõi chết, vậy mà Sư vẫn mặc áo nâu sồng, giữ trai tịnh với cơm muối nước lã, không để suy suyễn hao hụt oai nghi đạo hạnh của người xuất gia đầu Phật. Từ công việc nặng nhọc đốn củi đốt than trên rừng, Sư đã cùng một số bạn tù kết bè vượt ngục, trôi nổi giữa biển khơi mênh mông, đương đầu với sóng to gió lớn, bảy chết còn ba, hai bạn tù còn lại bên Sư thì ngoi ngóp nhắm mắt chờ chết, chỉ riêng Sư là còn tỉnh táo, định tâm. Ngồi trên bè với tư thế bán già, Sư đã nhất tâm trì niệm kinh chú qua một thời khắc sinh tử tồn vong chỉ cách nhau một sợi chỉ. Vậy rồi, sóng chìm gió lặng, bè trôi bềnh bồng lặng lẽ ba ngày hai đêm giữa mênh mông biển nước, cho đến khi được một chiếc thuyền buôn xuất hiện cứu vớt. Nhân duyên đã đưa đẩy một thương gia ở Rạch Giá có mặt trên thuyền buôn, vốn là một phật tử thuần thành đã đưa Sư về nhà của ông, chăm sóc bảo bọc ân cần chu đáo, làm giấy tờ giả để qua mắt nhà cầm quyền Pháp, đổi tên cho Sư là Võ Bửu Đạt. Từ đó, Sư không dám về quê xưa chùa cũ, mà ngao du giáo hoá khắp các tỉnh miền Tây Nam Bộ với tấm căn cước mang tên mới, rồi từ năm 1949 chính thức về Sài Gòn khi án tù vượt ngục không còn hiệu lực. Như một du tăng khứ đáo tự tại, Sư đã đến và đi qua rất nhiều ngôi chùa ở Sài Gòn, sau cùng mới dừng chân lại làm trụ trì chùa Giác Ngộ ở Ngã Sáu Vườn Lài. Đến năm 1951, là một bậc cao tăng được giới Tăng già hết mực tôn kính, nên ngôi vị Pháp Chủ Giáo Hội Tăng Già Nam Việt đã trao cho Sư đảm nhiệm. Giữ ngôi vị Pháp Chủ được 3 năm, thấy sức khoẻ suy yếu, Sư làm Chứng minh Đạo sư của Giáo Hội Tăng Già, xin cáo lui để về an dưỡng tại chùa Long Quang, mở cuộc trùng tu ngôi chùa này thành một cõi già lam trang nghiêm. Từ năm 1956 đến năm 1972, tạm rời vùng Bà Điểm –Hóc Môn để tranh bom đạn, Sư được cung thỉnh đến trụ trì ngôi chùa mới Long Nguyên sau đến an trú ở chùa Chưởng Thánh, rồi lại trở về chùa Long Quang khi sức khoẻ ngày càng như ngọn đèn cạn dầu, mặc dù tinh thần vẫn còn sáng suốt, trí tuệ vẫn minh mẫn…  Đúng vào sáng mồng Một Tết Quý  Sửu 1973, sau khi lên chánh điện lễ bái chư Phật, Sư bảo môn đồ kê một chiếc đơn bên cạnh bàn thờ Tổ, rồi nằm đó qua 11 ngày chỉ uống nước. Đến sáng ngày 11 tháng Giêng, Sư tắm rửa nước nấu bằng các loại hoa thơm, rồi sai thông báo cho tất cả các đê tử ở khắp nơi trở về để phụng giáo. Đúng 12 giờ trưa ngày 12 tháng Giêng, môn đồ pháp chúng tề tựu đông đủ, Sư  thuyết giảng một bài về lẽ vô thường, căn dặn không ai được sầu bi khóc lóc, rồi đọc một bài kệ 8 câu cho chúng đệ tử nghe. Sau đó, Sư bảo môn đồ  tập trung lên chánh điện tọa thiền, đánh trống Bát Nhã  liên hồi từ 15 giờ 30 đến 16 giờ thì Sư thâu thần thị tịch, trên tay vẫn còn nắm một xâu chuỗi mười tám hạt bồ đề, hưởng đại thọ 120 tuổi, với 99 tuổi đạo.

          Một vị cao tăng khác cũng sống trên 100 tuổi, đó là Đại lão Hoà thượng Thích Trừng Văn, pháp hiệu Giác Nguyên, sinh vào năm 1877. Sư có thế danh là Đặng Văn Ngộ, quê quán ở Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Với hoàn cảnh đặc biệt, lên 6 tuổi đã mồ côi cha mẹ, Sư được một quan Thái giám nhận làm dưỡng tử, và cho xuất gia quy y với Hoà thượng Tâm Tịnh tại chùa Từ Hiếu- Huế. Qua 5 năm tinh tấn tu học, thông làu kinh điển, Sư được Sư phụ xem như là Trưởng tử, cho thọ giới Sa di. Năm 1903, Sư rời chùa Từ Hiếu theo hầu sư phụ, đến tu ở thảo am Thiếu Lâm trên ngọn đồi phía Nam đàn Nam Giao. Khi 33 tuổi, Sư được thọ Cụ túc giới, đắc pháp với pháp hiệu là Giác Nguyên, và được tăng chúng suy tôn làm Thủ toạ chùa Tây Thiên. Khi Hoà thượng Tâm Tịnh viên tịch, Sư được suy cử làm trụ trì chùa này, nổi tiếng là một bậc cao tăng thanh tịnh khiêm cung, rất đông Phật tử xin cầu học thọ giới. Sư đã dành nhiều tâm huyết và đại nguyện để trùng tu ngôi chùa Tây Thiên trở thành một ngôi tự viện danh tiếng với công trình xây dựng một tượng đức Phật A Di Đà oai nghiêm lộng lẫy. Đến năm 1926, chùa được chính vua Bảo Đại ban sắc hiệu là “Sắc Tứ Tây Thiên Di Đà Tự”. Sau, Sư cùng chư tăng đạo hạnh thành lập trường Cao đẳng Phật học để đào tạo Tăng tài phung sự Phật giáo, giáo hoá chúng sinh.  Vào thời kỳ Pháp nạn (năm 1963-1966),  Sư đã cùng chư vị cao tăng xuống đường tuyệt thực để chỉ đạo cuộc đấu tranh bất bạo động, đòi quyền bình đẳng tôn giáo, chống chế độ gia đình trị họ Ngô, cũng như các chính quyền sau đó. Đã nhiều lần môn đồ pháp chúng định tổ chức lễ mừng Sư thượng thọ, nhưng Sư đã chối từ, và luôn răn dạy: “Hãy dùng tiền đó để đúc tượng, sửa chùa, bố thí cho người nghèo dân khổ!”. Đúng 01 giờ sáng mồng Một Tết Nguyên Đán năm Canh Thân (nhằm 16 tháng 2 năm 1980), Sư thản nhiên viên tịch, thọ 103 tuổi, với 70 hạ lạp.

           Một vị cao tăng nổi tiếng khác, cũng sinh vào năm 1877, cùng tuổi và cũng chính là pháp đệ của Hoà thượng Trừng Văn, đó là Đại lão Hoà Thượng Thích Trừng Thuỷ, pháp danh Giác Nhiên, thế danh Võ Chí Thâm. Sư xuất thân từ một gia đình gia phong đức hạnh ở Triệu Phong- Quảng Trị. Năm lên 7 tuổi, đã xin quy y cầu pháp với Hoà thượng Tâm Tịnh tại chùa Tây Thiên Di Đà (Huế). Năm 55 tuổi, Sư cùng chư Tăng uyên bác và đạo hạnh lập nên Hội An Nam Phật Học, đảm nhiệm chức Chứng minh Đạo sư, kiêm nhiệm Giám đốc Phật học đường Tây Thiên-Huế, rồi trú trì chùa Thánh Duyên, đứng ra Chứng minh cho tạp chí Viên Âm ra đời. Sau đó, Sư được suy cử làm trú trì Tổ đình Thuyền Tôn-Huế, Viện trưởng Phật học Viện Trung phần -Nha Trang. Đến lúc tuổi đã 86, chân yếu tay run, nhưng gặp Pháp nạn 1963, Sư vẫn hiên ngang chống gậy trúc dẫn đầu đoàn Tăng Ni xuống đường đòi bình đẳng tôn giáo, bảo vệ Chánh Pháp. Đặc biệt nhất, vào năm 1973, Sư được suy tôn chức Đệ Nhị Tăng Thống của Giáo hội PGVNTN… Sau năm 1975, Sư về lại chùa Thuyền Tôn tiếp hướng dẫn đồ chúng tu tập. Vào ngày 02 tháng 2 năm 1979,  Sư  an nhiên viên tịch, hưởng thọ 102 tuổi đời, với 69 hạ lạp.

             Xem ra, chúng ta thấy các Sư “đắc” được trường sinh đại thọ không phải vì các Sư đã chú tâm lập chí đi tìm, cũng không phải vì các Sư nhờ đã tu luyện thần thông nên nắm được “bí quyết sống lâu”, hay vì các Sư đã được Tây Vương Mẫu trên cõi trời cao ban xuống cho mấy trái đào tiên để “thọ thực trường sinh”, mà chỉ vì các Sư “chuyển được nghiệp, đổi được duyên” của mình bằng cuộc sống y áo bình dị, muối tương thanh bần, cơm rau đạm bạc, vô ngã vị tha, kính thờ Tam Bảo, y giáo phụng hành. Đến khi không muốn “sinh trụ” nữa, thì  đón lấy “hoại diệt” một cách bình thản an nhiên, nhiều khi các Sư còn thấy trước được ngày giờ mình ra đi, thăng khỏi cõi phàm trần uế tạp, nên đã có dư thời giờ sắp xếp nghênh đón giây phút tiêu diêu thiêng liêng ấy.

            Vậy cho nên, đã thấy biết rõ vô thường, thấu hiểu duyên khởi duyên sinh, thì chuyện trường sinh hay đoản thọ, bất tử hay mệnh yểu đối với nhà Phật có lẽ là… thôi, bất khả tư nghị, miễn bàn.

 

 

                                     

                                                             TÂM KHÔNG – VĨNH HỮU

 

Ý kiến bạn đọc
25/01/201622:45
Khách
Cảm ơn bạn. Kính mời bạn vào mục Bạn Bè trên trang web chuabenhdongian.com
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/09/2015(Xem: 10028)
Hôm chủ nhật cuối tuần ngày 20.09.2015, lớp ngành Thanh Gia Đình Phật Tử Tâm Minh tại Chùa Viên Giác, Hannover do mình hướng dẫn đã thảo luận về đề tài "Duyên Khởi và Dòng người tỵ nạn tại Âu Châu". Vì sao mình chọn đề tài nóng bỏng này cho các em thảo luận? Bởi các em là những thanh thiếu niên đã có bằng tú tài hoặc đang học đại học, cần có một cái nhìn mọi sự kiện xảy ra trong cuộc sống hàng ngày, cũng như ngay chính bản thân mình bằng lăng kính giáo lý Phật Đà, để phát lòng từ bi rộng lớn, chứ không phải từ bi "có điều kiện"! Điều này sẽ giúp cho các em tăng thêm sự hiểu biết về giáo lý thực dụng của Đức Thế Tôn khi trao đổi với bạn bè khác trong trường. Là một Phật tử, ta nên tập quán chiếu mọi pháp thế gian qua lăng kính Phật Giáo, thì sẽ nhận ra được "Phật pháp không ngoài thế gian giác!"
27/09/2015(Xem: 5708)
Chùa Đá Vàng là kỳ quan tôn giáo của người Myanmar đồng thời là câu hỏi chưa có lời giải đáp của ngành khoa học địa lý. Chùa Đá Vàng hay Kyaiktiyo là điểm hành hương Phật giáo nổi tiếng thứ ba tại Myanmar, sau chùa Swedagon và đền Mahamuni, cách Yangon 200 km. Ngôi chùa nằm chơi vơi trên tảng đá khổng lồ ở vị trí chênh vênh cạnh vách núi cao 1.100 m. Những ai lần đầu nhìn đều cảm tưởng hòn đá sẽ lăn ngay xuống vực. Truyền thuyết Myanmar lý giải cho bố cục kỳ lạ này bằng câu chuyện của Đức Phật, tương truyền bảo tháp trên hòn đá chính là sợi tóc của ngài. Dù bạn có tin vào truyền thuyết hay không, trong khoa học địa lý đây là hiện tượng không thể lý giải.
27/09/2015(Xem: 10028)
Khi sống con người hay lãng phí thời gian làm những việc vô nghĩa, bởi lòng tham lam, ích kỷ của chính mình, tích chứa tiền bạc của cải nhưng không giúp gì cho ai? Có một con cáo đã phát hiện ra một chuồng gà, nó bèn tìm cách tiếp cận nhưng vì cáo nhà ta quá mập nên không thể chui lọt vào chuồng để ăn gà. Thế là nó đành phải nhịn đói suốt ba ngày liền mới có thể vào được chuồng gà. Sau khi vào được, nó đã ăn no nê để bù lại những ngày nhịn đói, giờ đây chiếc bụng của cáo đã phình to ra, nên không thể nào ra được nữa, thế là cáo đành phải nhịn đói trở lại ba ngày mới có thể ra khỏi chuồng gà.
25/09/2015(Xem: 7766)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng ở tuổi 80 của tôi thuộc thế hệ thế kỷ 20. Những người trẻ dưới 30 tuổi thuộc thế hệ của thế kỷ 21. Ngài thừa nhận rằng thế hệ của thế kỷ 20 đã tạo ra nhiều vấn đề, bao gồm cả thiệt hại cho môi trường. Một số ý tưởng của họ, chẳng hạn như quan điểm cho rằng vấn đề có thể được giải quyết bằng vũ lực hiện nay là hoàn toàn lỗi thời. Đức Đạt Lai Lạt Ma từ bến phà Millbank Pier đi đến The The O2 Arena, Greenwich, Luân Đôn, Vương quốc Anh. 19/09/2015. (Ảnh: Jeremy Russell)
24/09/2015(Xem: 7921)
Khi chung ta bước đi, với tâm địa Từ Bi rộng mở mang theo, làm tất cả những việc lành cho tất cả chúng sanh là chúng ta đã mở rộng biên giới hòa bình ngày một dang rộng. Những bước chân ấy đáng gọi là những bước chân Từ Bi. Có những điều khi tiếp cận với Phật học, dù với bất cứ trình độ nào, chưa chắc một sớm một chiều mình hiểu ra ngay hết được. Đôi khi phải đợi đến nhiều chục năm sau, thậm chí gần hết đời người rồi mình mới bừng tỉnh về một điều giác ngộ chưa trọn vẹn. Khi xưa mình nghe kể chuyện đức Phật Đản sanh, dưới bảy bước đi đều nở bảy đóa hoa sen. Thần thoại, truyền thuyết hay hư cấu cho lung linh một sự kiện về đấng giáo chủ của mình; hãy cứ để đó. Sau này ghé sang Làng Mai, chạm phải những công án Thiền của Ngài Nhất Hạnh, chúng ta bắt gặp câu “Từng bước nở hoa sen” thì mới vỡ òa nhiều khúc mắc ngày xưa còn kẹt lại trong một góc tối của tâm trí nào đó.
24/09/2015(Xem: 8958)
Sau tiếng ré lên của cái chuông bấm ở cửa, mình đã nghe tiếng chìa khoá lách cách tra vào ổ khoá của cánh cửa song sắt ở bên trong. Một chập sau, cánh cửa "Trại Cải Huấn Thanh Thiếu Niên Phạm Pháp" (Jugendarrestanstalt, viết tắc là JAA) tại Nienburg nặng chịt, rít lên tiếng sắt cọ sát trên thềm xi măng, mở ra. Bước chân vào, vài câu chào hỏi trao đổi với cô giám thị. Cửa chánh đóng lại. Cô giám thị hướng dẫn mình đi qua một cánh cửa song sắt. Lại đứng chờ. Sau khi nó lại khóa lại, thì có cảm giác "mình đi lại tự do trong Trại Cải Huấn" được rồi! Tiến về phòng điều hành. Từ bên ngoài đã thấy ông "xếp" trại, ba nam giám thị, cô giám thị khi nãy; hai cô tác viên xã hội (Sozialarbeiterin) và thêm bốn thiếu nữ lạ mặt. Ông "xếp" trại giới thiệu bốn thiếu nữ lạ ấy cũng là tác viên xã hội ở các tù khác đến tìm hiểu kinh nghiệm hướng dẫn của "thầy JIP" - tên là Diệp, nếu đọc không bỏ dấu và theo âm Đức thì là "Dieb"; mà "Dieb" có nghĩa là "kẻ cắp"! Còn nếu phát âm tương đối đúng thì v
24/09/2015(Xem: 8978)
Phải nói thật rằng câu hỏi này lởn vởn trong đầu tôi nhiều lần, trong nhiều năm nay. Nghe có vẻ ngớ ngẩn. Mà cũng có thể tôi là người ngớ ngẩn. Ai đời lại đi đặt câu hỏi mà đứa trẻ học tiểu học cũng có câu trả lời thế này. Ấy thế mà khi ngồi tĩnh tâm tại ngôi chùa lớn nhất thế giới Borobudur, Indonesia câu hỏi này lại hiện về. Hiện về 1 cách rất rõ nét. Đây là lần thứ 3 câu hỏi này làm tôi trăn trở nhiều nhất.
21/09/2015(Xem: 7535)
Hơn hai ngàn năm trăm năm trước, Tu Bồ Đề kính cẩn đặt câu hỏi với Phật: “...Làm thế nào để an trụ tâm, làm thế nào để hàng phục tâm?” (Vân hà ưng trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm?) thì Phật bảo rằng không có gì khó cả, các vị Đại Bồ tát đều hàng phục tâm bằng cách như vầy... như vầy...
21/09/2015(Xem: 10008)
Tôi gặp bà lần đầu tiên trong một phiên họp thường niên lãnh đạo Hiệp hội Xuất bản ASEAN diễn ra tại thủ đô Jakarta, Indonesia. Ấn tượng của tôi về lãnh đạo cao cấp này của Hội sách lớn nhất thế giới được tổ chức thường niên vào tháng 10 là bà rất nhẹ nhàng, rất Á đông, rất gần gũi, rất nhiệt tình. Tôi cũng đặc biệt vui khi bà quan tâm đến Việt Nam. Trong phiên hop này, lãnh đạo Hội xuất bản Việt Nam bận hết nên tôi làm trưởng đoàn. Vậy là ngoài các buổi làm việc chung với trưởng đoàn của Hội xuất bản các nước ASEAN tôi có các buổi làm việc riêng với nhiều lãnh đạo các nhà xuất bản các nước, trong đó có buổi làm việc với bà Claudia Kaiser, người phó chủ tịch rất hiểu biết và thân thiện của Frankfurt Book Fair.
21/09/2015(Xem: 7938)
Khi mẹ mất, con cháu đều có mặt. Qua bao năm đất nước tang thương, chiến tranh khốc liệt, đàn con gian truân trong nghề nghiệp, trong lửa đạn. Có đứa vào quân đội, cả năm không thấy mặt, không biết ở đâu. Sau chiến tranh mọi người đều tìm cách bỏ xứ. Đứa trước đứa sau, qua rừng qua biển, rồi tìm cách đưa được mẹ sang xứ người. Các con làm lại sự nghiệp, các cháu học hành giỏi, thành công vượt mực. Ai cũng nói: “Cụ thật có phước, cụ thật có phước, được Phật độ !”
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]